Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2013

Hồi ký phần 1: “Tìm về trú xứ Ân Sư, tu viện vùng cao Hy Mã”





Hồi ký
“Tìm về trú xứ Ân Sư, tu viện vùng cao Hy Mã”


KỲ I:
            Là một người Phật tử, với tâm thành kính và quy ngưỡng đến Đức Từ Phụ Bổn Sư (Đức Phật), ai ai trong chúng ta đều có một mong muốn trong đời được một lần hành hương đến xứ Phật tại Ấn Độ, Nepal để chiêm bái, tu tập. Để tìm về các Thánh tích mà hơn hai ngàn năm trước Đức Phật và Chư Thánh Tăng đã từng trú ngụ, cùng với những nẽo đường đầy bụi đất lầy lội, mà khi xưa nơi đây đã từng hằng in dấu chân Đức Phật và Thánh Chúng khi cất bước khuất thực hoá duyên, thuyết Pháp hoá độ chúng sinh. Đó là những nơi chốn linh thiêng đã ghi lại dấu ấn lịch sử, những sự kiện chính yếu quan trọng trong cuộc đời của Đức Phật, thị hiện những công hạnh hoá độ tại cõi Ta Bà này. Tìm về những nơi chốn ấy để đặt tâm mình hồi tưởng theo những sử liệu, Kinh sách đã ghi, để nhận lấy một chút tín tâm, sự an lạc, và hoan hỷ với những công hạnh của các Ngài đã thị hiện tại những nơi Thánh địa linh thiêng ấy.

            Trong tháng 6 năm 2011, nhân Pháp hội của Đức Dalai Lama dành cho người Việt Nam tại tu viện Namgyal ở Dharamsala thuộc miền Bắc Ấn. Tôi có một vài thân hữu sang tham dự Pháp hội và sau đó kết hợp thực hiện một chuyến hành hương chiêm bái Thánh tích Phật Giáo. Chuyến hành hương được thực hiện trong khoảng thời gian mà thời tiết khí trời Ấn Độ với cái nắng nóng vô cùng gay gắt, nhưng đến được Phật tích ai trong chúng tôi cũng chí tâm chí thành đến Đức Phật, và xem sự gian lao khó nhọc đó như là một phương pháp để thanh tịnh nghiệp chướng và tích tập công đức, vì vậy tất cả chúng tôi đều hân hoan vui mừng và chuyến đi được rất nhiều lợi lạc.


            Mãn nguyện nhất là gặp được các Bậc Đạo Sư, đặc biệt là được tham dự Pháp hội của Đức Dalai Lama, được diện kiến Ngài, có người được Ngài nắm tay, ban phước và nhất là mỗi người nhận được một tượng Đức Phật nho nhỏ, nhưng rất đẹp theo kiểu tượng Đức Phật tại Bodh Gaya. Duyên lành này tương ứng với niềm hân hoan của chúng tôi khi bắt đầu chuyến hành hương tìm về xứ Phật, thực hành cúng dường cầu nguyện đến Đức Bổn Sư Shakya. Chính vì vậy trong chuyến hành hương, đến những nơi Thánh tích Đức Phật, mỗi người đặt bức tượng đó xuống Thánh địa và cùng nhau thành tâm cầu nguyện, tụng Kinh trì chú theo “Nghi quỹ Đức Phật”. Sau này có trở về Việt Nam, chỉ cần mỗi lần nhìn thấy tượng Phật nhỏ bé này cũng đủ sinh tâm hoan hỷ và vui mừng khi nhớ đến chuyến hành hương Phật tích mà bản thân mình đã từng trải qua.

Tu viện Dzongsar gần Dharamsala

Trường cao học Tây Tạng Sarah tại Dharamsala

            Chuyến hành hương trải dài từ New Delhi, vượt hơn 600 km để lên hồ thiêng Tso Pema nơi Đức Liên Hoa Sinh thị hiện thần thong, rồi trở về Dharamsala tham dự Pháp hội xong, lại trở về New Delhi và sau đó bắt đầu hành trình Phật tích từ Varanasi, chiêm bái qua rất nhiều Thánh tích Phật Giáo. Hành trình kéo dài hơn hai mươi ngày sau thì đến Lumbini, điểm cuối cùng của các Thánh địa liên quan đến Đức Phật, và khi đến vườn cát tường Lumbini thì cũng chính là đã đến đất nước Nepal. Cũng chính vì đất nước Nepal này là nơi lần đầu tiên trong đời tôi đặt chân đến khi rời khỏi nước Việt Nam, và cũng chính nơi đây là trú xứ của Bậc Đạo Sư tôn quý của tôi, và những lần đến đất nước này đều để lại trong lòng tôi với biết bao ấn tượng khó quên. Đặc biệt nhất là lần này với một sự kiện trong chuyến đi đã khắc sâu vào tâm thức mỗi người trong chúng tôi một dấu ấn lớn, để sinh tâm thành kính tín ngưỡng đối với một Bậc Đạo Sư và nhất là đối với chính bản thân tôi sẽ không bao giờ quên trong suốt cuộc đời này. Đó là một kỷ niệm khi cả đoàn đã đến Nepal, từ thủ đô Kathmandu bắt đầu chuyến hành trình trở về tổ đình Thubten Choling của Đấng Kyabje Trulshik Rinpoche trong vùng núi Solu Khumbu, thuộc phía nam của đỉnh Enverest, gần biên giới Tây Tạng. Chính vì vậy, mặc dù chúng tôi đã hành hương qua rất nhiều Thánh tích của Đức Phật với rất nhiều hình ảnh khó quên ở những nơi đó, nhưng hồi ký này sẽ chỉ tập trung kể lại những hình ảnh của vùng núi cao Hy Mã với những trải nghiệm khó quên đã ghi sâu vào tâm khảm chúng tôi.

            Khi đặt chân đến Kathmandu, tại Đại Bảo Tháp Boudhnath hùng vĩ, linh thiêng, đi kinh hành cầu nguyện, một ước nguyện mong mõi của tôi cũng như của tất cả mọi người trong đoàn là được diện kiến Đấng Kyabje Trulshik Rinpoche trong cuộc đời này, nhưng thời gian này Ngài đã trở về núi Solukhumbu, nhập thất tại tu viện Thubten Choling của Ngài. Và hiện nay do Ngài nhập thất nên việc diện kiến Ngài vô cùng khó khăn, và đường lên núi thì xa xôi, nếu đi đường bộ thì cũng mất ba hay bốn ngày, mà hiện giờ lại đang là mùa mưa bão nên đường núi sạt lở đi rất nguy hiểm, còn đi máy bay thì thời tiết xấu cũng khó cất cánh và hạ cánh. Biết được tin này ai cũng phân vân, sau một ngày suy tính và cuối cùng chúng tôi quyết tâm tìm lên đến tu viện Ngài, nếu không nhân cơ hội này lên núi thăm Ngài và viếng tu viện thì sau này khó mà còn cơ hội khác. Còn bản thân tôi thì suốt đêm đó suy nghĩ tính toán và cũng ao ước muốn lên núi vì đây là dịp được trở về Tổ đình của mình. Trước đó vài ngày, vào cái đêm ngủ ở Pokhara, trước khi đến Kathmandu một đêm, tôi có một giấc mơ gặp lại Thầy mình và vị thầy thị giả của Ngài bảo rằng những người đi chung đoàn này hữu duyên phước đức vô cùng nên trong đời này được diện kiến Ngài, chính vì vậy càng làm tôi vững tâm hơn và quyết chí lên núi (giấc mơ này tôi liền kể cho vài người trong đoàn nghe ngay sáng hôm đó ở Pokhara).

Đại Bảo Tháp Boudha

            Cả một buổi tính toán kinh phí và ra đoàn quyết định là đi máy bay, vì trong đoàn đa phần là phụ nữ và lại có hai “Ama” đã lớn tuổi một 55 và một 60 nên không đảm bảo sức khoẻ đi đường bộ. Mua vé máy bay xong thì chuẩn bị hành lý, trang bị các túi ngủ và vật dụng gọn nhẹ để mang theo, vì lên núi cao, đường xa, khí hậu khắc nghiệt và cái lạnh thấu xương. Sau khi chuẩn bị hành lý, mọi người ra Đại Bảo Tháp Boudhnath đi kinh hành cầu nguyện, cầu mong cho chuyến đi lên núi được bình an và được diện kiến tôn nhan Bậc Thánh Tăng uy đức ngay trong đời này.

            Qua ngày hôm sau mọi người ai ai cũng náo nức, hớn hở ra sân bay, nhưng ngồi tại sân bay cứ nhìn đồng hồ thời gian trôi qua, cứ vài mươi phút lại xem đồng hồ mà vẫn không thấy có thông báo cho chuyến bay cất cánh, sau thời gian mõi mệt chờ đợi hơn 4 giờ thì hãng máy bay báo rằng thời tiết tại Solukhumbu không tốt, mây mù và mưa nhiều nên không thể hạ cánh, chính vì vậy nên huỷ chuyến bay hôm nay. Thế là mọi người phải mệt mỏi lất thất trở về quán trọ ở gần Tháp Buodhnath.

Chờ đợi chuyến bay tại Kathmandu

            Sáng ngày hôm sau thì chuyến bay khởi hành sớm hơn dự định vì chúng tôi nhận được điện thoại của hãng hàng không bảo phải ra sân bay gấp, tranh thủ thời tiết tốt thì bay liền. Chiếc máy bay chỉ có 18 chổ, chính vì vậy hễ đủ người thì sẽ lập tức cất cánh, không theo thứ tự danh sách, hễ ai có vé và có mặt tại sân bay thì lên máy bay, và ưu tiên người nước ngoài, vì những ngày qua do thời tiết xấu, máy bay không bay được nên hành khách dồn lại rất nhiều, ai ra trước thì bay trước vậy. Chính vì nghe thời tiết xấu nên vài người trong đoàn cũng rất lo lắng cho an toàn của chuyến bay, ngồi trên máy bay mặc dù thấp thỏm lo sợ nên liên tục trì tụng thần chú và cầu nguyện, nhưng đôi mắt thì không sao cưỡng lại được những hình ảnh hoành tráng, trùng trùng điệp điệp của núi non, của những con sông, con suối uốn lượng ngoằn ngoèo trải dài dưới thung lũng của dãy núi rừng Nepal khi nhìn từ trên cao xuống. Cuối cùng máy bay cũng hạ cánh an toàn xuống sân bay Phaplu với đường băng gồ ghề thô sơ, sân bay địa phương của miền núi nhỏ bé khiêm nhường.

Máy bay hạ cánh
Sân bay địa phương Phaplu

Chuẩn bị xuất phát

Hăng hái lên đường

            Khi đáp máy bay đến sân bay Phaplu thuộc vùng núi Solukhumbu thì lúc đó đã là 11 giờ trưa, nghỉ ngơi uống trà xong thì thuê người phụ khuân vác hành lý lên núi. Người địa phương nói rằng từ sân bay Phaplu này lên đến tu viện Thubten Choling chỉ có 6 giờ đồng hồ. Thế là bắt đầu cuộc hành trình lên núi, mọi người trong đoàn ai cũng hăng hái tung tăng, vai mang tay xách hành lý, hướng về phía núi cầu nguyện đến Bậc Đạo Sư mà tiến bước. Sau khi băng qua dãy nhà phố núi đơn sơ mộc mạc với con đường lầy lội, sình lầy trơn trượt sau những ngày mưa phùn kéo dài, đi được một lúc thì bắt đầu tiến vào con đường đá nhỏ chuẩn bị leo lên dốc núi, ngay lúc đó mây mù kéo đến và bắt đầu một trận mưa rừng lúc thì tầm tả, lúc thì lất phất. Đoàn đành ghé ngang một quán xá nhỏ bên đường mua vài tấm nhựa ni-lông để làm áo mưa khoác tạm lên người cho qua cơn mưa.


            Suốt dọc đường mưa rừng lất phất, gian lao không vì núi cao mà vất vả vì mưa ướt tầm tả, và hơn hết điều kinh hãi làm mọi người chùng bước, mõi mệt, lo âu đó chính là gặp phải những sinh vật hút máu của núi rừng Hy Mã Lạp Sơn. Lúc này đang là mùa mưa ẩm ướt nên những con vắt hút máu này sinh sôi nảy nở rất nhiều, dọc đường đi không ai trong đoàn mà không bị chúng đeo bám lấy hút máu, chúng nằm ở khắp nơi trên các lá cây khi mọi người đi ngang thì lập tức bám lấy chân tay, có con bò lên cả cổ và đầu tóc. Thoạt đầu đi vào núi chưa hay biết gì cứ men theo đường núi mà tiến bước, đến khi nhìn thấy tay chân đầy máu, kinh hãi hoảng hốt với vài con vật màu nâu đen đeo bám trên tay, khi nhìn thấy thì lúc đó chúng đã no bụng rồi. Có người khi bị hút máu không hề hay biết gì đến khi thấy áo quần ươn ướt dính máu xem lại thì đã muộn, nó hút đầy máu xong thì tự động rớt ra, còn chưa no thì bám chặc lấy da thịt, mình chúng trơn nhớt gở ra vô cùng khó. Cứ chốc chốc dọc đường đi lại nghe tiếng la thất thanh hốt hoảng của người đi trong đoàn khi bị vắt đeo bám lấy hút máu.
Sinh vật hút máu trên núi rừng Hy Mã

            Mặc dù vậy, thỉnh thoảng vẫn phải cố dừng chân trước những ngôi nhà ven núi của người Sherpa để nghỉ ngơi, một bà lão mái tóc bạc phơ, gương mặt da nhăn khắc khổ của người miền núi, nhưng đặc biệt trên đó lại đậm nét hiền từ, phúc hậu, an nhiên, bà vui vẽ mang ra một bát mận đào chín đỏ để mời mọi người giải khát, trò chuyện.


Dừng chân bên ngôi nhà của cụ bà

            Trong suốt dọc đường đi, vài đoạn dừng chân lại là nhìn thấy những vườn đào, vườn mận sai trái trĩu quả, những quả đào to bằng quả cam chín mọng ửng đỏ mọc thành chùm trên những cành cây với lá xanh mươn mướt, bao lấy quấn quít xung quanh những cây đào là những cụm sương núi, mây trắng lất phất. Không chỉ quấn quanh những cành đào trĩu quả mà phía bên trên những vách núi, những ngọn sơn tùng, thông lá kim xanh rì, cao chót vót cũng thoát ẩn thoát hiện trong mây núi lửng lờ trôi. Bên dưới là dòng suối trong xanh nước cuồn cuộn chảy sau cơn mưa đầy, con suối tuôn chảy mạnh mẻ như muốn xô đẩy những hòn đá to chắn ngang dòng chảy, lại thêm hình ảnh bên trên những cây cầu treo bắc ngang qua suối, bay lất phất trong sương mờ mờ ảo ảo là những màu sắc rực rở của những lá cờ cầu nguyện và khăn katag trắng treo vắt trên thành cầu, một khung cảnh hiện ra, mặc dù trong buổi chiều tà hiu quạnh, nhưng không hề mang vẻ buồn ảm đạm của vùng sơn cước mà lại toát lên vẻ thoát tục của chốn bồng lai tiên cảnh.



Khu vườn đào quanh núi



Sơn tùng cao chót vót bên trên, phía dưới là dòng suối với chiếc cầu gỗ bắc ngang




Mây lững lờ trên ngọn sơn tùng cùng dòng suối cuồn cuộn sau cơn mưa
Cầu treo bắc ngang qua suối

            Xem lại đồng hồ thì lúc này đoàn đã đi được hơn 4 tiếng, bởi trước khi đi nghe người địa phương đi núi nói rằng đường đi chỉ mất 6 tiếng, bên cạnh đó đoàn đã đi đến đoạn đường bắt đầu xuất hiện những ngôi bảo tháp cổ kính bạc màu với những cặp mắt Phật nghiêm trang, bảo tháp đứng hiên ngang trên những ngọn đồi ven đường gánh chịu sương gió, lất phất bên cạnh là những dây cờ cầu nguyện đang bay trong mây, và những dãy tường đá rêu phong với những phiến đá chạm khắc đầy Kinh điển và Thần chú vừa là Tạng văn và cũng có Phạn văn, nhìn thấy cảnh vật ấy nên mọi người cứ tưởng rằng đã gần đến ngôi tổ đình đại tự, cả đoàn đứng lại ngắm nhìn khung cảnh hùng vĩ của núi rừng Hy Mã Lạp Sơn, nhìn lên trên là những ngọn núi ẩn mình trong mây, những vách đá cheo leo sừng sững được tô điểm với những thác nước nhỏ nhoi, xa xa trên những triền núi mọc lên những ngôi nhà gỗ đơn sơ mộc mạc, cạnh bên là những chuồng bò gia xúc chất đầy cỏ khô, nhìn xuống bên dưới thâm thẩm là những cánh đồng lúc mì, lúa mạch xanh xanh vàng vàng, bên cạnh đó cũng là những vực sâu hun hút lững lờ với những áng mây trôi,… tất cả đã lôi cuốn khiến đoàn lữ khách phải ngây ngất đắm chìm trong cảnh núi.


Các ngôi tháp cổ dần xuất hiện, với những dây cờ lất phất trong mây

Dãy tường đá ngang đường khắc đầy thần chú và Kinh

Dừng chân bên ngôi tháp cổ hiên ngang trong gió lộng, bên cạnh là anh khuân vác dẫn đường

Đồng lúa mì bên triền núi
Lác đác vài ngôi nhà ven triền núi với các chuồng gia súc.

            Và đoàn lại tiếp tục men theo con đường núi nhỏ hẹp mà thẳng tiến, nhưng cứ đi mãi, bầu trời thì đã gần như sụp tối mà đích đến vẫn chưa thấy đâu, bèn hỏi lại người khuân vác thì anh ta mới nói cho biết là phải đi thêm 3 tiếng nửa, hôm nay khó mà đến kịp, phải dừng chân lại nghĩ qua đêm sáng hôm sau hãy đi tiếp. Bởi vì người địa phương là dân sơn cước, đi lại thường xuyên trên tuyến đường này, với họ thì hành trình này chỉ mất 6 tiếng là chuyện thường, nhưng mọi người trong đoàn toàn là dân ở thị thành, lại đa phần là phụ nữ, có hai “Bà Ama” đã hơi lớn tuổi nên vừa đi vừa nghỉ, nhưng cho dù với những thanh niên khoẻ trong đoàn cũng không thể nào đi được chỉ với 6 giờ trên một chặn đường núi cao như vậy. Vậy là cứ cố gắng dốc sức mà tiếp tục đi cho đến nơi có quán trọ để nghỉ qua đêm.


            Khi trời gần sụp tối thì mọi người lại nhìn thấy thêm một ngôi tháp cổ khác, to hơn ngôi tháp trước, dưới chân cũng là những dãy tường đá chất đầy những phiến đá khắc Kinh. Bước thêm vài bước thì đã thấy ngay một chiếc cổng xây bằng đá, trét vôi, cột gỗ với nét cổ kính trong rất xa xưa, dọc theo bên trong cổng là hai dãy Kinh luân hai bên, hình ảnh như những cổng chùa mà mọi người đã từng được thấy trong các phim ảnh về xứ tuyết Tây Tạng, thật sự đây đúng là cổng chùa theo phong cách Tây Tạng mà ở bên ngoài xứ Tạng do người Sherpa dựng nên. Cuối cùng anh khuân vác và vị Lama đi cùng đoàn báo cho biết rằng đã đến được quán trọ, nơi đoàn sẽ dừng chân lại ăn tối và nghỉ qua đêm.

Cổng của một tu viện cổ, phía sau là ngôi nhà trọ nghỉ qua đêm

Bảo tháp cổ kính và hành lang Kinh luân đối diện cổng chùa

            Vào được quán trọ, mọi người tranh thủ vào phòng và nhanh chóng cởi hết y phục trên người để kiểm tra xem có con vắt nào còn bám trong người mình hay không, nỗi ám ảnh và sợ hãi đối với con vắt hút máu cứ đeo bám mọi người trong suốt chặn đường, lo sợ chúng nó chui vào lỗ tay, lỗ mũi, vào rốn mà sinh sản trong đó… Có anh Tashi người Tây Tạng đi chung đoàn bắt ra trong người hai con vắt đã hút máu no căng. Kiểm tra cơ thể xong thì vệ sinh, rửa mặt lau mình với những gáo nước suối lạnh băng băng, nhưng phải cố dùng, sau đó mới thông thả xuống gian nhà ăn để gọi thức ăn, trò chuyện. Cũng trong lúc này, mọi người đang chờ thức ăn, ngồi dưới ánh đèn neon lờ mờ đủ sáng, phát ra từ dòng điện được quay bằng sức nước của con suối, tất cả chúng tôi quay quần bên nhau vừa nhắc lại những khó khăn của chặn đường đi lúc sáng vừa xoa bóp đôi chân, khung cảnh giống như một gia đình trò chuyện vui vẻ, còn thầy Lama đi cùng đoàn thì chui vào trong bếp ngồi cạnh bếp lò sưởi ấm và nói chuyện cùng ông chủ quán trọ, lát sau các vị ấy cũng tập trung ra phòng ăn này. Bấy giờ tôi mới có dịp trò chuyện và hỏi thăm ông chủ quán trọ người Sherpa biết một chút ít tiếng Tạng, cùng vị Lama đi cùng đoàn, từ đó cho tôi biết được thêm về vùng đất này.

Vui đùa dùng bửa trong quán trọ


Góc bếp đơn sơ nhưng ấp áp trong cái lạnh buốc của gió núi

Bửa sáng chỉ cốc trà sửa nóng với bánh mì chiên Tây Tạng, bột tsampa

Vài ngôi nhà kề bên quán trọ

            Thoạt tiên khi nhìn thấy cổng chùa nơi đây nên cứ tưởng rằng đã tới được tu viện tổ đình nhưng đây chỉ là cổng chùa của một ngôi chùa cổ được cộng đồng người Sherpa theo Phật Giáo Tây Tạng xây dựng cách đây hơn 300 năm, tu viện cổ này có tên là Chiwong Gonpa. Trong những năm 1959, với sự kiện lưu vong của Đức Dalai Lama đến Ấn Độ ở vùng đất Dharamsala, thì trong khi ấy Kyabje Trulshik Rinpoche cùng với mấy trăm tu sĩ và dân Tây Tạng cũng thoát khỏi Tây Tạng và đến trú xứ này. Và Ngài đã trụ lại ở tại tu viện Chiwong này trong khoảng sáu năm đầu, và tại tu viện này hiện tại còn lưu trữ Năm Bộ Phục Tàng (Terma) của Đức Liên Hoa Sinh truyền lại cho đến ngày nay, một năm chỉ có một lần trong dịp lễ hội mới mở Tàng Kinh ra cho đông đảo người dân Phật tử đến chiêm bái đảnh lễ. Khoảng thời gian sau đó, Ngài mới cùng với hơn sáu mươi tu sĩ tiến lên cao phía trên dãy núi nơi được gọi là “Sư Tử Động”, dưới hang động này còn lưu lại dấu ấn bàn tay của Ngài Sangye Lingpa, tại đây Kyabje Trulshik Rinpoche đã bắt đầu thành lập cộng đồng tu viện với tên gọi “Thubten Choling” (tu viện Giáo Lý Phật Đà, hay Phật Giáo Pháp Viện). Nơi vùng đất này rất gần đỉnh Enverset, thuộc phía nam của đỉnh Enverest, và cũng rất gần biên giới Tây Tạng – Nepal, nên rất nhiều người Tây Tạng tị nạn qua vùng đất này. Tôi nhớ lại hai năm về trước khi đang học tại trường Cao học Tây Tạng Sarah, trong một tiết giảng bài của thầy chủ nhiệm tên Passang, thầy có kể lại chuyến hành trình vượt núi tuyết chạy nạn của mình sang Nepal, có đoạn như sau: “Sau thời gian trốn chạy thì đã đến biên giới Nepal và ở trong một tu viện, món ăn ngon nhất trong đời mà tôi được ăn đó là bửa cơm đầu tiên tại tu viện của Kyabje Trulshik Rinpoche, chỉ có cơm và dal (một loại súp nấu bằng đậu xanh)”.

            Sau một ngày dài hành trình mỏi mệt, thế là mọi người ai về phòng nấy. Một gian phòng nhỏ hẹp được đóng bằng gỗ thông rừng với ánh đèn mờ ảo, sau khi cầu nguyện đến Bậc Đạo Sư xong thì thả mình vào giấc ngủ.

Hồi ký viết tại Dharamsala, ngày 15 tháng 8 năm 2011.
  
File kèm hình ảnh download tại link:
http://www.mediafire.com/view/?6lvgxy6xa8mmtgr

Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2013

Phật thuyết Kinh: "Lời nguyện vương của Thánh Từ Thị




THÁNH TỪ THỊ PHÁT NGUYỆN VƯƠNG KINH



Phạn ngữ: Ar-ya Me-tri-pra-ni Dha-na-rah-jah.
Tạng ngữ: Phag-pa Jam-pe mon-lam gyi gyal-po
Lời nguyện vương của Thánh Từ Thị.
Cung kính đảnh lễ hết thảy Chư Phật và Bồ Tát.

Này A-nan, như vậy Bồ Tát Đại Dũng Tâm Từ Thị, trước đây khi thực hành hạnh Bồ Tát, ngày ba lần, đêm ba lần, hạ thượng y để hở một bên vai, đầu gối chân phải quỳ chạm đất, cung kính chấp tay ở trước hết thảy Chư Phật đã phát lời nguyện này:

Cung kính đảnh lễ hết thảy Phật.
Cùng là đảnh lễ Chư Bồ Tát
Các bậc tiên nhân đủ thiên nhãn,
Cùng với chư vị Thanh Văn chúng.

Đẩy lùi các nghiệp nơi cõi ác,
Chỉ bày rỏ ràng đường cõi lành,
Dẫn dắt vào nơi không già, chết,
Cung kính đảnh lễ Bồ Đề Tâm.

Do bị sai xử bởi nơi tâm,
Nên con đã tạo bao tội nghiệp,
Nay hiện ở trước mặt Phật Đà,
Con xin sám hối hết tất cả.

Nguyện bất kỳ nghiệp từ ba loại,
Phát sinh tư lương phước đức thì,
Thành hạt Toàn Trí ở nơi con,
Nguyện quả Bồ Đề con vô tận.

Quốc độ thanh tịnh khắp mười phương,
Hóa hiện cúng dường bất kỳ Phật,
Phật Đà Liễu Tri sinh hoan hỷ,
Như thế nơi con xin tùy hỷ.

Hết thảy tội chướng xin sám hối,
Tất cả phước đức xin tùy hỷ,
Cung kính đảnh lễ hết thảy Phật,
Nguyện con chứng đắc Trí thù thắng.

Hết thảy các xứ trong mười phương,
Thù thắng Bồ Đề Đại Bồ Tát,
Trụ nơi hết thảy mười địa vị,
Cung kính khuyến thỉnh thành chánh quả.

Nguyện chứng Bồ Đề Viên Mãn Giác,
Hàng phục các ma, chúng ma quân,
Vì làm lợi ích khắp sinh linh,
Thỉnh nguyện xoay chuyển Bánh xe Pháp.

Dụng nơi âm thanh Trống Pháp to,
Giải thoát chúng sinh khỏi đau khổ,
Nghìn vạn số kiếp không nghĩ bàn,
Thỉnh nguyện trụ thế mà giảng Pháp.

Bị sa lầy trong bùn tham dục,
Sợi dây ái ân đang trói chặt,
Hết thảy gông cùm trói buộc con,
Chư Lưỡng Túc Tôn xin thấy biết.

Tâm thức chúng sinh nhiễm cấu uế,
Chư Phật không hề trách, ghét bỏ,
Đầy tâm từ ái với hữu tình,
Nguyện cứu thoát khỏi biển luân hồi.

Viên Mãn Chánh Giác nào trụ thế,
Các vị quá khứ cùng tương lai,
Con xin theo học với tất cả,
Nguyện thường thực hành hạnh Bồ Tát.

Làm trọn sáu hạnh Đến Bờ Kia,
Nguyện độ hữu tình trong sáu cõi,
Với sáu thần thông hiện chứng xong,
Nguyện xúc chạm đến Vô Thượng Giác.

Không sinh ra và không xuất hiện,
Không có tự tánh, không có nơi,
Không có ý thức, không có thật,
Nguyện được liễu ngộ Pháp không tánh.

Như Đấng Phật Đà đại tiên nhân,
Không có chúng sinh, không có mạng,
Không có con người, không có dưỡng,
Nguyện được liễu ngộ Pháp vô ngã.

Không bám trụ vào các vật chất,
Chấp ta, chấp là ta nắm giữ,
Vì để lợi ích khắp hữu tình,
Nguyện không keo kiệt bố thí hết.

Vật chất không có vật chất nên,
Nguyện con thọ dụng tự nhiên thành,
Tiêu táng hết thảy các vật chất,
Nguyện trọn Bố thí Đến Bờ Kia.

Luật nghi Trì Giới không phạm lỗi,
Trì Giới đủ đầy sự thanh tịnh,
Dụng sự Trì Giới không ngạo mạn,
Nguyện trọn Trì Giới Đến Bờ Kia.

Không bám trụ nơi nguyên tố như,
Đất cũng như nước, gió hoặc lửa,
Nhẫn nhục hoặc không có sân si,
Nguyện trọn Nhẫn nhục Đến Bờ Kia.

Tinh tấn, tinh cần lúc khởi sự,
Kiên định, hân hoan không lười biếng,
Thân tâm đầy đủ sức dũng mãnh,
Nguyện trọn Tinh tấn Đến Bờ Kia.

Thiền định giống như sự huyễn ảo,
Thiền định của tướng đi oai hùng,
Thiền định giống như kim cang nên,
Nguyện trọn Tĩnh lự Đến Bờ Kia.

Ba cửa rốt ráo đạt giải thoát,
Tánh cũng bình đẳng suốt ba thời,
Cùng hiện chứng đắc Ba Minh nên,
Nguyện trọn Trí tuệ Đến Bờ Kia.

Hết thảy Chư Phật đều tán dương,
Hào quang, uy nghiêm tỏa chiếu cùng,
Tinh tấn của bậc Bồ Tát nên,
Nguyện tâm tư con được vẹn tròn.

Thực hành các hạnh giống như thế,
Bậc có danh xưng “Từ Thị Tôn”,
Làm trọn sáu hạnh Đến Bờ Kia,
Thường hằng trụ nơi mười địa vị.

Nơi đây mạng chung không bao lâu,
Vãng sinh Đâu Suất, lòng hoan hỷ,
Nhanh chóng làm con Đấng Từ Thị,
Nguyện đắc thọ ký Quả Bồ Đề.

Này A-nan, Bồ Tát Đại Dũng Tâm Từ Thị trụ nơi thượng giới, dùng phương tiện thiện xảo, thừa an lạc, nhập vào an lạc, đạo lộ an lạc, tu trì Chánh Đẳng Bồ Đề, viên mãn Chánh Giác, đây thực là một phương tiện thiện xảo.

Hoàn mãn Kinh: “Phật thuyết Lời nguyện vương của Thánh Từ Thị”.

[Thần chú của Đức Di Lạc:]

Na-mo Rat-na tra-ya-ya, Na-mo Bha-ga-va-te, Shak-ya-mu-na-ye, Ta-tha-ga-ta-ya, Ar-ha-te Sam-yak-sam Bud-dha-ya. Tad-ya-tha, Om A-ji-te A-ji-te, A-pa-ra-ji-te, A-ji-te-ntsa-ya, Ha-ra Ha-ra, Mei-tri A-va-lo-ki-te, Ka-ra Ka-ra, Ma-ha Sa-ma-ya Sid-dhi, Bha-ra Bha-ra, Ma-ha Bo-dhi Man-da Bi-ja, sMa-ra sMa-ra, A-sma-kam Sa-ma-ya, Bo-dhi Bo-dhi, Ma-ha Bo-dhi Soa-ha. Om Mo-hi Mo-hi Ma-ha Mo-hi Soa-ha. Om Mu-ni Mu-ni sMa-ra Soa-ha.

[Hồi hướng - Phát nguyện]

Do công đức này ta, người, các chúng sinh,
Ngay khi mạng chung, được sinh cung Đâu Xuất,
Trong nơi nhà lành cao quý của Pháp đó,
Nguyện được làm con Pháp Chủ Đấng Di Lạc.
Tự tại mười địa, bổ xứ cõi Diêm Phù
Khi đắc quả vị đầy đủ cả mười lực.
Thụ hưởng trước tiên cam lồ của Pháp ngữ.
Nguyện rốt ráo hết công hạnh Đấng Thắng Phật.

Vô lượng phước báu thực hành hạnh như thế,
Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh cùng phi thiên,
Thường luôn đoạn trừ nhận lấy nơi ác đạo,
Nguyện sinh trước chân Chiến Thắng Từ Thị Tôn.

Do thiện hạnh này hết thảy đời đời kiếp
Đắc thân hạ mãn, nương tựa Thiện Tri Thức,
Gánh vác đau khổ của khắp chúng sinh xong,
Nguyện hành sự nghiệp Giáo lý nơi Từ Thị.

Bởi lực gia trì đại bi nơi Tam Bảo,
Nhân quả bất hư, Pháp Giới thanh tịnh cùng,
Chiến Thắng Từ Thị phát nguyện như thế nào,
Nguyện đắc thành tựu hết thảy lời nguyện đó.

Một trong những bài Kinh rất quan trọng mà hằng năm các dòng tổ chức Monlam thường hay tụng nhất, từ Nyingma Monlam, Kagyur Monlan v.v... thường tụng đọc bài Kinh này tại Bồ Đề Đạo Tràng. Và cùng với những Kinh khác như Phổ Hiền Hạnh Nguyện Vương, Văn Thù Chân Thật Danh Kinh, Nhập Bồ Tát Hạnh v.v… Đây là những Kinh điển kim chỉ nam cho hàng người thực hành hạnh Bồ Tát, ngoài mười hạnh nguyện lớn của Đức Phổ Hiền thì những hạnh nguyện của Ngài Di Lạc chính yếu là thực hành về Sáu hạnh Đến Bờ Kia (Lục độ Ba La Mật hay Đáo Bỉ Ngạn). Bài kinh này người dịch đã dùng các thuật ngữ mang tính thuần Việt, tránh dùng Hán Việt rất nhiều, chẳng hạn như “Lục thông” là “sáu thần thông”, “Thập địa” là “mười địa vị của Bồ tát”, hay “Tam Minh” là “chứng đắc ba minh” v.v... Nói chung vì bài Kinh này thường được chư vị Đạo Sư và Tăng chúng tụng trong các Pháp hội và khi tụng đọc mà hồi hướng cho các chúng sinh cõi thấp thì rất lợi lạc và công đức cũng vô lượng. Mấy năm trước khi tham dự Pháp hội Nyingma Monlam tại Bodhgaya, người dịch đã nghe chư Tăng Tây Tạng tụng đọc rất nhiều, trong tâm rất hoan hỷ, và đã ao ước phát nguyện dịch ra tiếng Việt, nhưng lúc đó chưa có khả năng, nay chuyển dịch được hoàn mãn và thuận lợi nên trong lòng rất hoan hỷ. Nguyện công đức nhỏ nhoi của việc làm này được mang đến lợi lạc và hạnh phúc cho khắp chúng sinh trong mười phương và đến quả vị giác ngộ của hết thảy chúng hữu tình cha mẹ. Nguyện cát tường. Ngữ lực Giới Hiền chuyển ngữ từ Tạng văn sang Việt văn. Dharamsala, ngày 04/10/2012.

Hạ tải bản văn Tạng – Việt tại link:

Trì tụng Phật Đảnh Tôn Thắng đà-ra-ni




Trì tụng Phật Đảnh Tôn Thắng đà-ra-ni
để tăng trưởng phước đức


Bảo tháp Phật Đảnh Tôn Thắng Mẫu cùng với chín Bổn tôn



1. Quy y – Phát tâm:
Chư Phật, Chánh Pháp, Tăng Già thù thắng bảo,
Cho đến giác ngộ con nương tựa quy y,
Công đức có được như con hành bố thí,
Nguyện thành Phật quả vì lợi ích chúng sinh.

2. Quán tưởng:
Thân ta bình thường mỗi nơi hiện sáng rỏ,
Đỉnh đầu trên đĩa mặt trăng Om màu trắng,
Cổ họng Ah đỏ, giữa tim Hung xanh đen,
Trên trán Tram vàng, ngay rốn Hri màu đỏ,
Hai gối Am Ah xanh lá làm biểu tượng.

Tụng 3 lần:
Om Ah Hung Tram Hri Am Ah rak-sha rak-sha tu mam.

Bầu trời phía trước Phật tháp Tôn Thắng Mẫu,
Bên trong bảo bình viên mãn đủ tánh tướng,
Phật Đảnh Tôn Thắng Mẫu cùng chín bổn tôn,
Hết thảy Chư Phật, Bồ Tát vi nhiễu quanh.

Khi quán như thế, hai tay kết lại dựng thẳng hai đầu ngón tay cái chạm vào nhau bắt ấn Thí An Lành, trì tụng một lần chân ngôn đà-ra-ni dài, sau đó xả ấn, trì tụng tiếp:


Om Na-mo Bha-ga-va-te Sar-va Trai-lo-kya Pra-ti-vi-shish-tra-ya Bud-dha-ya Te Na-ma Tad-ya-tha Om Bhrum Bhrum Bhrum Sho-dha-ya Sho-dha-ya Vi-sho-dha-ya Vi-sho-dha-ya A-sa-ma Sa-man-ta A-va-bha-sa sPha-ra-na Ga-ti Ga-ga-na Sva-bha-va Vi-shud-dhe Ush-ni-sha Vi-ja-ya sPha-ri-shud-dhe A-bhi-shinh-tsan-tu-mam Sar-va Ta-tha-ga-ta Su-ga-ta Va-ra Va-tsa-na A-mri-ta A-bhi-khe-ke-ra Ma-ha-mu-dra Man-tra Pa-de A-ha-ra A-ha-ra Ma-ma A-yus Sam-dha-ra-ni Sho-dha-ya Sho-dha-ya Vi-sho-dha-ya Vi-sho-dha-ya Ga-ga-na Sva-bha-va Vi-shud-dhe Ush-ni-sha Vi-ja-ya Pa-ri-shud-dhe Sa-ha-sra Ras-mi Sanh-tso-di-te Sar-va Ta-tha-ga-ta A-va-lo-ki-ni Shat-tra Pa-ra-mi-ta Pa-ri-pu-ra-ni Sar-va Ta-tha-ga-ta Ma-te Da-sha Bhu-mi Pra-tish-thi-te Sar-va Ta-tha-ga-ta Hri-da-ya A-dhish-tha-na A-dhish-thi-te Mu-dre Mu-dre Ma-ha Mu-dre Ben-ja Ka-ya Sam-ha-ta-na Pa-ri-shud-dhe Sar-va Kar-ma A-va-ra-na Vi-shud-dhe Pra-ti-ni War-ta-ya Ma-ma A-yur Vi-shud-dhe Sar-va Ta-tha-ga-ta Sa-ma-ya A-dhish-tha-na A-dhish-thi-te Om Mu-ni Mu-ni Ma-ha Mu-ni Vi-mu-ni Vi-mu-ni Ma-ha Vi-mu-ni Ma-ti Ma-ti Ma-ha Ma-ti Ma-ma-ti Su-ma-ti Ta-tha-ta Bhu-da-ko-ti Pa-ri-shud-dhe Vi-sphu-tra Bud-dhe Shud-dhe He-he Ja-ya Ja-ya Vi-ja-ya Vi-ja-ya sMa-ra sMa-ra sPha-ra sPha-ra sPha-ra-ya sPha-ra-ya Sar-va Bud-dha A-dhish-tha-na A-dhish-thi-te Shud-dhe Shud-dhe Bud-dhe Bud-dhe Ben-je Ben-je Ma-ha Ben-je Su-ben-je Ben-ja Gar-bhe Ja-ya Gar-bhe Vi-ja-ya Gar-bhe Ben-ja Dzo-la Gar-bhe Ben-jod-bha-ve Ben-ja Sam-bha-we Ben-je Ben-ji-ni Ben-jam Bha-va-tu Ma-ma Sha-ri-ram Sar-va Sat-tva-nanh-tsa Ka-ya Pa-ri-shud-dhir Bha-wa-tu Me Sa-da Sar-va Ga-ti Pa-ri-shud-dhish-tsa Sar-va Ta-tha-ga-tash-tsa Mam Sar-va-sa-tvam-shtsa Sa-ma-shva-sa-yan-tu Bud-dhya Bud-dhya Sid-dhya Sid-dhya Bo-dha-ya Bo-dha-ya Vi-bo-dha-ya Vi-bo-dha-ya Mo-tsa-ya Mo-tsa-ya Vi-mo-tsa-ya Vi-mo-tsa-ya Sho-dha-ya Sho-dha-ya Vi-sho-dha-ya Vi-sho-dha-ya Sa-man-tam Mo-tsa-ya Mo-tsa-ya Sa-man-ta Ras-mi Pa-ri-shud-dhe Sar-va Ta-tha-ga-ta Hri-da-ya A-dhish-tha-na A-dhish-thi-te Mu-dre Mu-dre Ma-ha Mu-dre Ma-ha-mu-dra Man-tra Pa-de Soa-ha.

Tâm chú:
Om Bhrum Soa-ha. Om A-mri-ta A-yur-da-de Soa-ha.

Khi trì tụng chấp hai tay trong thế cung kính và trì tụng hai mươi mốt biến khi có thể, nếu không thể trì tụng đà-ra-ni dài thì có thể trì tụng tâm chú cũng được. Khi trì tụng quán tưởng rõ, tâm ý tập trung vào các chủng tự trên thân mình, ý nghĩa vô ngã, các bổn tôn ở phía trước, âm thanh của thần chú v.v… quán tưởng các chủng tự vào lúc giữa, âm thanh thần chú vào lúc cuối. Nếu phóng chiếu thì xưng tán cầu thỉnh thể nhập v.v… thực hành như thế nào có thể và hồi hướng công đức.

3. Hồi hướng:
Nguyện thiện hạnh này con nhanh chóng,
Đắc thành tựu Tôn Thắng Phật Mẫu,
Chúng sinh dù một cũng không sót,
Đồng an lập vào quả vị Ngài.

Rút ra từ “Hành Pháp hằng ngày” của Ngài Khyentse.
Ngữ Lực Giới Hiền chuyển ngữ từ Tạng văn sang Việt văn. Tại Bảo tháp Boudha nath Kathmandu, ngày mùng 10 tháng 3 năm Thủy Xà 2140 Tạng lịch.


Hình ảnh tu quán bố trí chủng tự trên thân.