Thứ Bảy, 30 tháng 8, 2014

Văn - Tư - Tu

BÀI 9: Văn
Hỏi: Để việc thực hành Pháp được rốt ráo thì trong ba: Văn (lắng nghe, học hỏi), Tư (tư duy, khảo sát), Tu (tu hành, thiền định) cái gì là quan trọng.
Đáp: Đối với thực hành Pháp được rốt ráo thì Văn - Tư - Tu cả 3 đều quan trọng. Cũng thế, trước tiên là Văn, giữa là Tư và cuối cùng là Tu mỗi cái đều quan trọng. Chẳng hạn như trước hết cái được gọi là Văn đó thì cực kỳ quan trọng, cách nói như vậy là gì? Bởi vì, bản thân chúng ta là toàn bộ những chúng sanh muốn giải thoát khỏi từ hết thảy đau khổ, sau đó được an lạc cứu cánh và tu hành đạt đến quả vị Phật thì cần phải viên thành tu đạo (Tu). Để thực hành thế cần phải tư duy (Tư) về bản chất của con đường (đạo), mục tiêu, tiến trình, số lượng, phương pháp tu hành v.v… bằng cách khảo sát thật tốt rồi phát khởi quảng đại như là sự xác quyết và lòng tin. Để khởi lên [sự xác quyết và lòng tin] như vậy nếu trước tiên mà không nghe học (Văn) cho tốt thì không có cách nào đạt tới được. Như thế cho nên Đức Từ Thị Di Lạc có nói: “Trước tiên nương tựa vào Văn (việc học) để phát sinh an bày tư tưởng cho đúng (như lý tác ý), an bày tư tưởng cho đúng lý thì sẽ xuất hiện cảnh giới của trí tuệ chân thật nghĩa (chánh nghĩa cảnh trí)”. Những nhà Hiền triết cũng đã nói rằng: “Vị đại thiền giả không có Văn, như người cụt tay leo vách đá”. Vì thế nên nói rằng người bị cụt ngón tay đó cố gắng leo lên đỉnh cao của vách đá cũng giống như người muốn làm một nhà đại tu hành mà cái gì cũng không học hết, cũng đã nói giống như thế.
Như thế cho nên, một vài người cho rằng để thoát ra khỏi luân hồi và đạt được Phật quả thì cần phải tu tập, tuy nhiên Văn và Tư cả hai là trở ngại của Tu. Tại sao lại nói như vậy, vì nghe học từ người khác và tự mình đọc sách v.v… bất kỳ cái nào, thì ý nghĩa của những cái đó cũng chỉ là suy nghĩ để mà phân biệt (niệm tưởng). Cũng vậy, dù là tư duy tốt hay xấu thì cái nào cũng là những khái niệm phân biệt, những cái đó không khác gì là trở ngại cho tu tập và làm cản trở cho giải thoát và đạt được nhất thiết trí. Ví dụ như trong một nhà tù dù là dây xích bằng sắt hay dây xích bằng vàng thì cái nào cũng là những trói buộc làm trở ngại cho mình thoát khỏi nhà tù. Và tương tự như vậy dù là mây trắng hay đen gì thì cũng đều che lắp mặt trời, mặt trăng, nó giống nhau không khác. Cũng bởi vì vậy mà có người nói rằng hành động loại bỏ và tiếp thu (sở đoạn, sở thâu) cái gì cũng không làm, thiện và ác cái nào cũng không suy nghĩ, việc “độn thế” (xa lìa mọi sự) đó được gọi là “Du Già Vô Phân Biệt”, rồi cái gì cũng không tư duy để ngồi trụ đó là tu hành thù thắng, và cũng là phương pháp tối thắng để giải thoát khỏi vòng luân hồi.
Điều đó tạm thời nó làm dừng lại hành vi từ bỏ ác nghiệp và viên thành thiện nghiệp là cái nhân để đạt được quả vị ở cõi cao của trời và người, vì làm cản trở đạt được nhân quả của cõi cao nên nó thật sự là một kẻ ngăn cản con đường nhân quả để đạt được giải thoát cứu cánh và nhất thiết trí. Quỹ Phạm Sư (Acharya) Nguyệt Xứng (Candrakirti): “Cái nhân của cõi cao thì không có gì hơn giới luật”, đã nói như vậy. Để cho đời sau đạt được một thân trời và người hoàn toàn viên mãn, trong đời này mà không giữ gìn giới luật từ bỏ mười nghiệp bất thiện thì không có cách nào đạt được. Tương tự như vậy, Đấng Thế Tôn đã thuyết:
“Đau khổ nên biết (Khổ),
Nguồn tập nên đoạn (Tập),
Sở diệt nên chứng (Diệt),
Tu đạo nên hành (Đạo)”,
Vì thế cần phải thực hành loại bỏ và tiếp thu dựa trên sự hiểu biết chân lý của Tứ Diệu Đế để đạt được giải thoát. Đồng thời Đấng Thế Tôn đã thuyết:
“Biển lớn luân hồi các ông dù đã thoát,
Ưu khổ còn nhiều các ông chưa vượt qua,
Nơi Phật thừa này còn phải nên đi tìm”.
Đấng Sát Tặc (A-la-hán) sau khi thoát khỏi luân hồi, rồi thỏa mãn chỉ với an lạc tịch tĩnh của bản thân, để diệt bỏ cái che chướng là cái nhân thô thiển của căn thức và ý thức, họ an trụ trong nhập định một thời gian dài, tuy nhiên Đức Phật đã đánh thức họ dậy từ sự nhập định đó, rồi dạy cho họ công hạnh vô biên của hàng Bồ tát là viên thành quảng đại lợi ích cho hữu tình, sau đó khuyến khích họ cần phải thành Chánh Giác.
“Độn thế” và “Vô phân biệt” có nghĩa là cái gì cũng không làm, cái gì cũng không suy nghĩ chỉ ngồi đó, nếu làm như vậy mà sẽ thoát khỏi luân hồi, thì Bậc Khai Thị – Đức Phật trong khoảng từ ba mươi lăm tuổi đến tám mươi tuổi đã thuyết giảng vô biên Giáo Pháp thậm thâm vi diệu để thiết lập nền tảng cho ba con đường tiểu-trung-đại thừa, sẽ trở thành vô ích. Không chỉ vậy những nhà Hiền triết theo sau Đức Phật, đã trước tác nhiều luận điển để thích nghĩa cho những lời Phật thuyết (Kinh), những đại thành tựu giả tu hành sau đó đã đạt được thành tựu ở quả vị cao, tự thân các Ngài đã trãi nghiệm tu hành qua từng bước (tiến trình), bản chất của con đường (đạo), các Ngài đã trước tác nhiều luận điển để giảng dạy rỏ ràng cho những người khác thì cũng sẽ thành vô ích. Từ bỏ ra xa những pháp dại khờ chỉ ưa thích lười biếng như thế, sau đó đối với Giáo Pháp giảng dạy rỏ ràng chân lý của thiện và ác, trước tiên cần phải làm những gì cho tốt để học (Văn) rộng đó là một điểm rất quan trọng.
Quỹ Phạm Sư Mã Minh (Asvaghosa) đã nói như vầy trong Bổn Sanh Kinh (truyện tiền thân Đức Phật), “Văn cũng giống như ngọn đèn xua tan bóng đêm của ngu si”. Tại sao nói như vậy, trong một căn nhà tối tăm có chứa đủ thứ đồ đạc, nếu bật lên một ngọn đèn thì sẽ nhìn thấy rõ ràng những hình dạng và màu sắc của đủ loại đồ vật khác nhau. Tương tự như vậy nếu mà có học (Văn) tốt thì sẽ biết được rõ ràng những việc từ bỏ và những việc tiếp thu, những ưu điểm và những khuyết điểm đã nói trong Giáo Pháp của Đức Phật. Tương tự có nói rằng: “Văn là báu vật tối thắng mà những kẻ trộm không thể cướp”. Ví dụ trong thế gian này vàng và bạc là những báu vật mà những người khác ăn cắp và kẻ cướp mang đi, và cũng sẽ bị tiêu hủy bởi tứ đại chẳng hạn như lửa…, tuy nhiên Văn châu báu thì không giống như vậy mà được xem như là báu vật tối thắng bản thân mình luôn luôn có. Văn đó thì cũng xem như người bạn trân quý không có đổi thay, đó là trong thế gian này những người bạn trai và bạn gái quý mến khi bản thân mình có tài sản và vật chất, địa vị tốt v.v… thì lúc đó họ xem mình như người bạn trân quý, nhưng khi bản thân mình nghèo nàn và bần cùng thì lúc đó lòng của những người bạn đã thay đổi rồi giả bộ làm ngơ không biết đến mặt mình. Người bạn Văn thì không giống như thế, luôn luôn lúc nào cũng không thay đổi, là người bạn chân thật làm lợi lạc cho bản thân mình. Tương tự như vậy, Văn đó cũng được xem như vũ khí để tiêu diệt kẻ thù. Tại sao lại nói như vậy, bởi vì kẻ thù ở bên trong mọi lúc, những điểm tiếp thu và loại bỏ cái gì cũng không biết, cái mê muội [không biết] đó là kẻ thù to lớn nó sẽ bị tiêu diệt bởi chính Văn là sự học cái điểm tiếp thu và loại bỏ. Văn là cần thiết đối với việc viên thành quảng đại pháp sự đó là phương pháp hữu ích để làm lợi lạc cho đời sau, vậy thì cần gì phải nói nửa.
Trong cuộc sống tạm thời này để đạt được chỉ với vui vẻ và sung sướng, nếu mà cũng không có học (Văn) thì không thể đạt được tốt. Ví dụ bản thân chúng ta từ lúc là con nít nhỏ thì cách ăn, cách uống v.v… trước tiên học từ cha mẹ rồi cần phải biết từng bước. Từ đó đi đến trường rồi cần phải học hỏi nhiều điều. Do đó, đối với việc hoàn thành hoạt động để vui vẻ và sung sướng trong cuộc đời này thì cũng cần phải có trí thức. Cũng từ đó nếu một người đã không học khi thấy được sự ngu dốt của mình, thì người đó sẽ không tránh né những gian nan và phí tổn để nắm giử mục tiêu là việc học. Thật vậy cả Pháp sự và thế sự thì cái nào cũng cần phải vun bồi cho việc học (Văn), đó là một điều quan trọng.

Nguyên tác Tạng ngữ từ “Lesson 9”, trong Giáo trình Phật Pháp “Lectures on Tibettan Religious Culture” của Geshe Lhundup Sopa, do Viện Văn Khố Tây Tạng LTWA (Library of Tibetan Works and Archives) phát hành. Tựa đề của bài do người dịch đặt, trong nguyên tác không có tựa đề.
Ngữ Lực Giới Hiền (Ngawang Tsultrim Zangpo) dịch từ Tạng văn sang Việt văn, qua sự giảng dạy của thầy tỳ kheo Penpa Tsering, trường Cao học Tây Tạng Sarah.

BÀI 10: Tư
            Hỏi: Từ trong ba điều Văn Tư Tu, cái gọi là Tư cần phải được nhận định như thế nào?
            Đáp: Nói về Tư đó là lắng nghe (Văn) những lời của Đức Phật thuyết (Kinh) và rồi bằng cách khảo sát thật tốt những chân lý đối với những ý nghĩa của [Kinh] đó, để tìm ra được sự xác quyết (biết chắc), thì được gọi là Tư. Tất cả những ý nghĩa trình bày các điểm từ bỏ và tiếp thu mà được nghe từ người khác và tự mình đọc sách..., tuy nhiên nếu tư duy về những điều đó để khảo sát thật tốt mà không truy cứu (tìm tòi) các ý nghĩa chân lý thì không thể phát sinh tốt sự xác tín phù hợp với ý nghĩa. Bởi vì sẽ có sự lầm lẫn cho nên cần phải tìm cho được sự xác quyết bằng cách tư duy để khảo sát thật tốt. Sau khi lắng nghe (Văn) xong cần phải tư duy để khảo sát thật tốt, ví dụ như xoay quanh tình hình của thế giới, nếu chỉ lắng nghe người khác nói chuyện thì cũng giống như con chó gặp được lá phổi (1), nếu không tin tưởng liền mà phải khảo sát về những giá trị tốt xấu để tiếp thu và loại bỏ thì cực kỳ quan trọng, và hơn thế nửa đối với chân lý của Pháp khó mà hiểu nổi đó, thì không đặt lại chỉ với những điều đơn thuần đã học, mà phải tư duy đối với những ý nghĩa đó để kiểm tra kỉ thật kỉ rồi khẳng định niềm tin cho vững vàng, quả thật vậy.
            Đức Phật - Đấng Thế Tôn cũng đã tuyên thuyết với những đệ tử đồ chúng rằng: “Khi các ông tu tập theo Giáo Pháp mà ta giảng nói, ví như khi người thợ bạc lấy vàng, trước tiên đốt lửa rồi dựa vào màu sắc bên ngoài để [xem] lỗi có hay không có, và tiếp theo bằng cách cắt ra để [xem] bên trong vàng pha trộn có hay không có, và sau đó lại tiếp tục mài vào đá để [xem] vàng pha trộn tinh vi, khó mà nhận biết, có hay không có. Kiểm tra thật tốt bằng ba việc đốt, cắt, mài xong khi đã thấy không có lỗi là đã có được vàng tốt nhất. Tương tự, nơi Giáo Pháp của ta cùng là lời và lý cần phải khảo sát thật tốt cái gì là khuyết điểm và phẩm hạnh có hay không có, rồi hãy thực hành tu tập, không phải chỉ vì nguyên nhân tôn kính ta nên tất cả những lời ta đã nói mà nghe như vậy rồi nắm giữ lấy mà tu hành là không phù hợp”, trong Kinh đã có thuyết. Vì như vậy nên, với ý nghĩa của Văn trước khi thực hành tu tập cần phải tư duy (Tư) để khảo sát thật tốt rồi tìm ra được sự xác quyết thì cực kỳ quan trọng.
            Cái gọi là Tu (Thiền) cũng vậy, nói chung thì có nhiều loại Thiền cộng thông (bình thường) và bất cộng thông (phi thường). Tuy nhiên, tất cả những cái đó nếu mà được gom lại dựa vào chủ yếu và phân nhánh thì gom thành hai loại, một bên là Thiền Chỉ và một bên là Thiền Quán. Cũng vậy, từ trong Nhập Bồ Tát Hạnh có thuyết:
“Thiền Quán thường có cùng với Thiền Chỉ để,
Đoạn trừ hoàn toàn phiền não, khi biết được
Trước tiên cần tìm Thiền Chỉ, đó cũng là
Thành tựu chân hỷ không bám luyến thế gian.”
đã thuyết như thế. Đối với việc làm sạch sẽ tận gốc rễ những phiền não bao gồm tập khí thì cần phải làm sạch sẽ chấp ngã là cội rễ của phiền não. Đối với việc làm sạch sẽ đó, cần phải sinh khởi trí huệ của Thiền Quán để tri kiến được sự hiện chứng về vô ngã. Tương tự như vậy, đối với việc sinh khởi trí tuệ của Thiền Quán bất cộng thông thì trước tiên cần phải đạt được Thiền Chỉ. Không chỉ vậy, nói chung về Thiền Quán, mặc dù có đủ loại [thiền quán] cộng thông của Phật đạo, ngoại đạo và [thiền quán] bất cộng thông, nhưng tất cả những cái đó trước tiên mà không hoàn thành được Thiền Chỉ thì không có cách nào đạt được, vì vậy trước tiên cần phải tu Định (Tam muội) về Thiền Chỉ thì cực kỳ quan trọng.
            Nói về Thiền Chỉ thì, bằng cách đoạn trừ hai lỗi lầm hôn trầm và trạo cử, tâm có thể tập trung (nhập định) vào đối tượng ở một điểm rõ ràng và cố định [lâu] thế nào theo ý muốn, đó gọi là đặc trưng của Thiền Định. Hôn trầm là, mặc dù tâm đang trụ vào đối tượng của mình, nhưng cần phải nắm giữ chính đối tượng đó thật rõ ràng và chặc chẽ, một phần của đối tượng rõ ràng đó bị mất đi rồi nó hơi hơi lờ mờ (không rõ ràng), hoặc là mặc dù nó có rõ ràng nhưng mất đi một phần của sự nắm giữ chặc rồi sau đó hơi hơi lờ mờ (không rõ ràng), hoặc là mặc dù nó có rõ ràng nhưng mất đi một phần của sự nắm giữ chặc rồi sau đó lạc mất cách nắm giữ, đã nói như thế. Hôn trầm đó trong Thiền Định trở nên xáo trộn khi xảy đến, vì vậy khó mà nhận định, nếu xuất hiện điều đó thì trong Thiền Định đã có lỗi lầm cho nên mặc dù có hành thiền bao nhiêu đi nửa, thì không có thể nào đạt được với Thiền Chỉ không có lỗi lầm. Không những vậy, tâm giống như màn đêm bao phủ bị mê man và sự ngủ gật v.v… cũng xuất hiện. Vì vậy sự hôn trầm đó cần phải lập tức nhận ra rồi có phương pháp diệt bỏ đây là điểm trọng đại. Trạo cử là: khi tâm của chúng ta tư duy về đối tượng thiện lành (2) thì không thể trụ vào một điểm với đối tượng đó, do bởi sức mạnh quyến rũ làm cho tâm chạy theo những cảnh bám luyến ở bên ngoài, hoặc đi theo sức mạnh của sự xao lãng.
            Thiền Chỉ đó là làm tâm trụ vào một điểm nơi đối tượng của mình, để đạt được trụ phần (giai đoạn an trụ) chính yếu. Nếu có được trụ phần đó thì sẽ ở trong trạng thái không suy thoái, từ đó sẽ xuất hiện được một trí tuệ đặc trưng để quán sát đối tượng của mình, đó gọi là Thiền Quán. Tương tự như vậy, nếu đã đạt được Thiền Quán thì cũng gọi là đạt được sự hợp nhất của Chỉ và Quán. Chính vì vậy cho nên khi nói chung về Thiền thì có hai là Thiền Quán Sát và Thiền An Trụ. Thiền mà liên quan về khảo sát (nghiên cứu) bằng cách dùng các lý do v.v… làm đối tượng của mình trong khi hành thiền thì được gọi là Thiền Quán Sát. Tất cả những Thiền Quán Sát là thiền được gom về phía Thiền Quán. Nói về Thiền An Trụ, Thiền mà chủ yếu để tâm trụ vào một điểm nơi đối tượng của mình, không phân tích đối tượng của mình trong khi hành thiền, đó gọi là Thiền An Trụ. Thiền An Trụ có là gì thì những cái đó được gom về phía Thiền Chỉ.
(1) Cách ví của người Tây Tạng cho rằng con chó rất thích ăn lá phổi, nên khi gặp được lá phổi nó ăn liền mà không cần biết gì, giống như nghe người khác nói rồi tin liền mà không cần kiểm tra.
(2) Đối tượng của thiền có rất nhiều có thể là đồ vật như viên đá, cái bình, bông hoa v.v… cũng có thể đạt được thiền định, nhưng trong Phật đạo thì sử dụng đối tượng thiền quán là hình ảnh hay tượng của Chư Phật, Bồ Tát thì sẽ có được công đức, vì thế gọi là đối tượng thiện lành.
Nguyên tác Tạng ngữ từ “Lesson 10”, trong Giáo trình Phật Pháp “Lectures on Tibettan Religious Culture” của Geshe Lhundup Sopa, do Viện Văn Khố Tây Tạng LTWA (Library of Tibetan Works and Archives) phát hành. Tựa đề của bài do người dịch đặt, trong nguyên tác không có tựa đề.
Ngữ Lực Giới Hiền (Ngawang Tsultrim Zangpo) dịch từ Tạng văn sang Việt văn, qua sự giảng dạy của thầy tỳ kheo Penpa Tsering, trường Cao học Tây Tạng Sarah.

BÀI 11: Tu
            Hỏi: Vậy thì cái gọi là Thiền Chỉ cần phải hành thiền như thế nào?
            Đáp: Đối với thực hành Thiền Chỉ cần phải có cả những thuận duyên bên ngoài, bên trong và phải không có những nghịch duyên. Nếu nói về thuận duyên đó cần phải có những gì? Đối với nơi hành Thiền Chỉ tốt nhất thì có: đất nước (phong thổ) thích nghi với cơ thể của cá nhân và những điều kiện thuận lợi về ăn mặc dễ dàng tìm được, những bằng hữu hòa hợp v.v… Và những nghịch duyên bên ngoài là những nguy hiểm về nước và lửa (ngập lụt và cháy), kẻ cướp, các loại thú dữ nguy hiểm v.v… thì ít có, đồng thời không phải là những nơi có nhiều người đi tới đi lui và nhóm họp chơi đùa v.v… Cần phải là một nơi biệt lập và yên tĩnh, có được sự giảm thiểu các âm thanh làm ảnh hưởng đối với việc thiền định là các tiếng ồn v.v… nếu có được giống như đã nói thì tốt.
            Sau đó đối với phương pháp hành thiền thực sự, trước tiên tư thế của thân là cách ngồi thì: thân có được bảy đặc điểm trong cách ngồi của Đức Đại Nhật Như Lai (Vairocana), được gọi là “Đại Nhật Thất Pháp”. Nếu có thể giống như vậy thì tốt, đó là: thứ nhất, hai chân nếu có thể ngồi thế kim cang già phu (kiết già) thì càng tốt, còn nếu không thể thì ngồi phân nửa kim cang già phu (bán già) cũng được. Dẫu sao đi nửa y theo hoàn cảnh thân thể của mỗi người đặt hai chân sao cho thoải mái là được. Thứ hai, hai tay đặt trong thế nhập định, đó là phải đặt tay gần cạnh rốn của mình, tay trái ở dưới và tay phải ở trên, rồi mặt của hai ngón tay cái đặt chạm nhau. Thứ ba, xương sống lưng thẳng như mũi tên, phía sau xương sống lưng không được cong nghiêng sang trước sau và phải trái, phải ngồi giống như mũi tên chính trực. Thứ tư, hai vai phải đặt ngay thẳng theo tự nhiên. Thứ năm, hai mắt không được quá mở to và quá nhắm lại, bằng cách phải đặt nó chỉ nhìn vào chóp mũi. Thứ sáu, không được đặc biệt là nghiến răng và môi ngậm quá chặc v.v… phải để hai răng và môi theo tự nhiên. Thứ bảy, đầu lưỡi cần phải chạm nhẹ vào vòm miệng.
            Tiếp theo, những thuận duyên của việc tu hành Thiền Chỉ và những phương pháp ngồi của thân nếu đã chuẩn bị xong thì sau đó có rất nhiều cách đặt với đối tượng của Thiền Chỉ. Nói chung, bất cứ cái gì dùng làm đối tượng cũng đều có thể thành tựu Thiền Chỉ. Chẳng hạn như, cũng có người thực hành bằng cách dùng cây cối và hòn đá v.v… làm đối tượng thiền. Nhưng dựa vào thân khẩu ý của Chư Phật và Chư Bồ Tát v.v… bất kỳ cái nào cũng phù hợp để làm đối tượng thiền, hoặc bất kỳ một đối tượng tín tâm nào đối với bản thân mình nếu dùng làm đối tượng thiền thì tốt. Cũng thế, có được đối tượng thiền chân thật, hoặc bất kỳ đối tượng nào để quán tưởng trong tâm thức mình sao cho thuận tiện thì làm đối tượng thiền, rồi tâm của mình đối với đối tượng thiền đó lúc đầu tiên nắm giữ bằng cách đặt chuyên chú vào một điểm rồi, cho đến cuối cùng tâm không cần cố gắng mà tự động nhập vào đối tượng của mình bằng cách lìa bỏ lỗi lầm của hôn trầm, trạo cử. Như đã giảng nói đó là cách thức thực hành Thiền Chỉ dựa theo chín phương pháp (1). Những điều đó nếu chỉ nói tóm gọn đại khái thì: đầu tiên của Trụ Tâm, được gọi là “Nội Trụ” (đặt tâm vào trong), đó là trước hết tâm của mình chỉ đặt và chỉ đặt chuyên chú vào một điểm nơi đối tượng ngoài ra không thể trụ liên tục lâu dài. Khi trụ tâm ở bước một, tâm bị những niệm tưởng phân biệt làm xao động lập đi lập lại từ đối tượng, và khi đó xuất hiện đến như thể là nhiều hơn từ những niệm tưởng đã xảy ra trước đó. Tuy nhiên đã nói rằng, lúc này không phải là nhiều niệm tưởng đã xảy ra, vì đang khảo sát với tâm nên sẽ hiển hiện lên những dấu hiệu để nhận biết những niệm tưởng. Bước hai “Tục Trụ” thì đã tiến triển hơn một chút so với lúc trụ tâm ở bước một, tâm không thể trụ chỉ một chốc lát dù chỉ một chốc lát với đối tượng của mình, sau đó chỉ đặt vào đối tượng để có thể kéo dài chút ít thời gian, được gọi là Thiền Định. Bước ba gọi là “An Trụ” thì, khi tâm trụ vào đối tượng của mình nếu từ đó phóng ra bên ngoài thì lần nữa tâm ép buộc vào lại bên trong, sau đó kéo dài thời gian chuyên chú vào một điểm nơi đối tượng rồi trụ lại. Khi trụ tâm ở bước một và bước hai sẽ xảy ra sự xao động trong một khoảng thời gian dài hơn so với trụ tâm. Khi ở bước ba sẽ xuất hiện sự trụ lại trong một khoảng thời gian dài hơn so với sự xao động. Bước bốn “Cận Trụ”, bằng sự sinh khởi đại lực của chánh niệm để đặt đối tượng trong một khoảng thời gian. Từ đây, bởi vì đối tượng thiền không thể mất đi cho nên sẽ vượt hơn hẳn so với ba bước trước. Bước năm “Điều Phục”, khi ở bước bốn đại lực của chánh niệm làm cho tâm tập trung quá sức vào bên trong khiến cho áp lực của hôn trầm vi tế có nguy cơ xảy đến, vì vậy lúc đó chánh tri sẽ quán sát tâm nên tâm có nguy cơ tuột xuống, khi đã biết được vậy thì lúc đó tâm cần phải nâng cấp lên cao bằng cách tư duy về phẩm hạnh của Thiền Định. Nói về chánh tri là, từ một khía cạnh của ý thức, giống như gián điệp của tâm là người làm cái việc quan sát những ưu khuyết đối với tâm. Bước sáu “Tịch Tĩnh”, khi trụ tâm ở bước năm cái lỗi của việc gắng nâng cấp tâm lên quá sức làm cho trạo cử vi tế nguy cơ xảy đến. Và chánh tri lúc đó đã nhận biết được, rồi từ đó lập tức ngăn chặn lại. Bước bảy “Tối Cực Tịch Tĩnh”, trong lúc đó mặc dù đã có được hoàn toàn đầy đủ chánh niệm lực và chánh tri lực, từ đây tinh tấn lực khởi lên và nhận thấy được hôn trầm, trạo cử vi tế cũng như lỗi lầm và diệt bỏ bất cứ cái gì có thể rồi thực hành thiền định. Khi ở bước năm và bước sáu hôn trầm và trạo cử cái nào cũng có nguy cơ to lớn làm ảnh hưởng đến mình, tuy nhiên ở bước thứ bảy này, bởi sinh khởi tinh tấn lực nên sẽ làm nhỏ dần nguy cơ làm gián đoạn gây ảnh hưởng đến mình bởi hôn trầm và trạo cử. Bước tám “Chuyên Chú Nhất Cảnh”, trước tiên khi bước vào nhập định chuyên chú vào một điểm với đối tượng, nếu cố gắng một chút thì từ đó trong khoảng nhập định lỗi lầm vi tế của hôn trầm và trạo cử sẽ không có, có thể luyện tập theo như ý muốn của mình với khoảng thời gian nhập định. Bước chín “Đẳng Trì”, khi trụ tâm ở bước tám cần phải tùy thuộc vào một chút cố gắng, tuy nhiên ở bước này không phụ thuộc vào sự cố gắng mà vẫn có thể luyện tập theo như ý muốn trong khoảng thời gian dài ngắn đối với đối tượng của mình. Tương tự với “Cửu Chủng Trụ Tâm” (1), còn có cách nương tựa vào “Bát Chủng Đoạn Hành” (2) như là tinh tấn v.v…  để diệt bỏ những chướng duyên của Thiền Định như giải đãi, “Ngũ chủng quá hoạn” (3) v.v… Cũng như vậy Cửu Chủng Trụ Tâm ở đây là phương pháp thành tựu bằng “Lục Lực” (4), và Cửu Chủng Trụ Tâm này là cách tóm gọn lại của “Tứ Tác Ý” (5) mà đã được giảng dạy tường tận trong Kinh Trang Nghiêm Luận và Trung Quán của Bậc Thánh Từ Thị (Di Lạc) và Tu Thứ (trình tự tu hành) của Ngài Liên Hoa Giới, Bồ Đề Thứ Đệ Quảng Lược Luận của Tôn giả Tsong Khapa. Từ trong tất cả những [Kinh điển] này đã giảng dạy rồi, ở đây chỉ là tóm gọn lại rất đại khái một phần của cách nhận biết Cửu Chủng Trụ Tâm.
            Nói một cách chi tiết, các khẩu quyết của Bậc thiện tri thức, Đấng Đạo Sư, và tất cả những Kinh điển ở trên, bản thân mình cần phải học cho tốt, hiểu rõ và rồi đưa vào thực hành của dòng tâm thức. Nếu đã có được tốt tất cả những phương pháp như là Cửu Chủng Trụ Tâm thì cuối cùng Thiền Chỉ chân thật sẽ có khả năng thành tựu. Như thế nào thì gọi là Thiền Chỉ chân thật? Khi trụ tâm ở bước thứ chín tâm xa lìa được hôn trầm, trạo cử rồi có được khả năng trụ lại theo như ý muốn của cá nhân trong một thời gian dài mà không cần cố gắng với đối tượng của mình, sau đó cả hai thân và tâm có được đại lực thục luyện mạnh mẽ đối với việc tu hành thiền định, được gọi là “Thân tâm lưỡng đắc hỷ lạc khinh an”, là trong khi nhập định mà tâm không thoải mái như là hành thiền định không như ý muốn và thân thể thì nặng nề v.v… những khía cạnh không an lạc đó đã được loại bỏ qua bên, rồi sau đó sẽ xuất hiện một kinh nghiệm đặc trưng của sự an lạc được sinh khởi từ thiền định đối với thân và tâm. Cũng thế, ở ban đầu xuất hiện sự an lạc thô thiển giống như sự ngờ vực làm ảnh hưởng đến Thiền Định thì cũng đã được giảm nhỏ dần. Và vào lúc cuối cùng khi thành tựu được Thiền Định đặc trưng không lỗi lầm mà cũng không nhận biết được sự an lạc thô thiển của thân và tâm, gọi là đạt được Thiền Chỉ chân thật. Nếu đã đạt được Định của Thiền Chỉ giống như vậy, bằng cách nương tựa vào đó sẽ có thể thành tựu vô biên công đức như là tĩnh lự (samadhi), tiên tri, thần thông (ngũ nhãn lục thông) v.v… cộng thông của Phật đạo, ngoại đạo và thành tựu vô lượng công đức bao gồm đạo quả của Tam thừa tiểu trung đại bất cộng thông (6).
(1) Chín phương pháp trụ tâm: 1. Đang theo ngoại cảnh, gom tâm vào trong, khiến trụ nội cảnh, đây là Nội Trụ. 2. Tâm đang nội trụ, không tán dật khác, đây là Tục Trụ. 3. Nếu có tán dật, lập tức nhận biết, đưa về nguyên cảnh, đây là An Trụ. 4. Lại gom tâm về, khiến dần vi tế, đây là Cận Trụ. 5. Công đức thiền định, tích đến sinh hỷ, đây là Điều Phục. 6. Thấy lỗi tán dật, diệt bất hỷ định, đây là Tịch Tĩnh. 7. Diệt các tham tâm, cùng bất lạc ý, Tối Cực Tịch Tĩnh. 8. Lệ lực cầu đắc, vô công dụng trụ, Chuyên Chú Nhất Cảnh. 9. Giờ tâm tự động, trụ bình đẳng xả, đây là Đẳng Trì.
(2) Hay “Bát Chủng Đối Trị”, “Phá Ngũ quá y Bát hành”: đoạn trừ năm loại chướng ngại trong khi thiền định dựa vào tám loại đối trị: Hứng thú, Tinh tấn, Tín tâm, Thành hiệu, Niệm lực và minh giác, Chánh tri, Dụng tâm đối trì, và Bình hành.
(3) Là năm loại chướng ngại trong thiền định: Giải đãi (lười biếng), Vong niệm (dễ quên), Hôn trầm và trạo cử, Bất đối trì (do tâm lực mỏng nên để mặc cho trạo cử), Quá độ đối trì (dùng tâm quá độ)
(4) Sáu lực là: Văn Lực giúp thành tựu Nội trụ tâm, Tư Lực giúp thành tựu Tục trụ tâm, Chánh Niệm Lực giúp thành tựu An trụ tâm và Cận trụ tâm, Chánh Tri Lực giúp thành tựu Điều phục tâm và Tịch tĩnh tâm, Tinh Tấn Lực giúp thành tựu Tối cực tịch tĩnh và Chuyên chú nhất cảnh, Thục Luyện Lực giúp thành tựu Đẳng trì tâm.
(5) Bốn phương pháp đặt định ý nghĩ: Lệ lực vận chuyển tác ý, Hữu gian khuyết vận chuyển tác ý, Vô gian khuyết vận chuyển tác ý, Vô công dụng vận chuyển tác ý.
(6) Thuật ngữ “Cộng thông” (Tạng ngữ: thun-mong) có nghĩa là thông thường, chung chung, trong khi “Bất cộng thông” (Tạng ngữ: thun-mong ma-yin): có nghĩa là không chung chung, không thông thường, hay đặc biệt, khác thường v.v… thuật ngữ này thường xuất hiện trong các cách lý giải của Giáo Pháp khi người viết hoặc người giảng ý muốn lựa ra một vài điểm đặc biệt khác thường để trao truyền Giáo Pháp hoặc thực hành. Nếu thảo luận về Phật Giáo nói chung thì lúc đó “bất cộng thông” biểu thị không phổ biến đối với người không phải Phật Giáo, ngoại đạo; nếu thảo luận về Mahayana (Đại Thừa) thì lúc đó “bất cộng thông” có nghĩa là không phổ biến đối với Hinayana (Tiểu Thừa); nếu thảo luận về Tantra (Mật Chú Thừa) thì lúc đó “bất cộng thông” biểu thị không phổ biến đối với Paramitayana (Ba-la-mật-đa Thừa) v.v…
Nguyên tác Tạng ngữ từ “Lesson 11”, trong Giáo trình Phật Pháp “Lectures on Tibettan Religious Culture” của Geshe Lhundup Sopa, do Viện Văn Khố Tây Tạng LTWA (Library of Tibetan Works and Archives) phát hành. Tựa đề của bài do người dịch đặt, trong nguyên tác không có tựa đề.
Ngữ Lực Giới Hiền (Ngawang Tsultrim Zangpo) dịch từ Tạng văn sang Việt văn, qua sự giảng dạy của thầy tỳ kheo Penpa Tsering, trường Cao học Tây Tạng Sarah.

Quy y Tam Bảo và Tông phái Phật Giáo



BÀI 4: Quy y Tam Bảo
            Hỏi: Như thế nào thì được gọi là một “Người Phật tử”?
            Đáp: Nói chung được gọi là “Người Phật tử” thì được đặt định bằng cách có hay không có quy y mà là quy y nơi Tam Bảo. Tại sao nói vậy, đối với phẩm hạnh của Tam Bảo [ở mức] tối thiểu mà chỉ có được sự hiểu biết sơ lược nên không đủ tâm tư kỳ vọng vào đó thì không có cách nào bước vào bên trong của “Người Phật tử”. Bây giờ cách để quy y Tam Bảo là, với tâm tư kỳ vọng từ tận đáy lòng để tin tưởng nơi Tam Bảo có được năng lực cứu thoát [ra khỏi] từ nỗi khiếp sợ của những đau khổ trong vòng luân hồi và các cõi ác, đó là trọng yếu của quy y. Đới với điều đó được gọi là Ý quy y. Có được sự tư duy giống như vậy từ đó phát (nói) lên những câu: “[Con xin] quy y nơi Đức Phật” (Đến nương náu nơi Đức Phật), thì được gọi là Khẩu quy y.
            Cũng vậy, nơi Phật Bảo thì, tự thân [Ngài] diệt trừ tận gốc rễ tất cả những khuyết điểm của hai chướng (phiền não chướng và sở tri chướng) v.v… Bậc Khai Thị Chánh Đẳng (Đức Phật) đã giảng dạy không tà kiến (không sai lầm) sự quy y cho người khác bằng những phẩm hạnh viên mãn của trí bi dũng v.v… Pháp liễu ngộ và đoạn trừ được bao gồm trong Diệt Đế và Đạo Đế của Dòng Thánh mà Ngài đã giảng dạy đó là Chân Pháp hay Chân Thật Pháp Bảo, và tất cả những Pháp đó Chư Tăng Già đã thành tựu như lý, là bằng hữu chánh đáng thực hiện sự quy y, từ đó nếu có được một sự khẳng định vững vàng thì quy y mà đặt kỳ vọng vào những điều như thế, đó cũng là sự quy y thanh tịnh. Không những vậy, chỉ một sự hiểu biết sơ lược về phẩm hạnh của Tam Bảo mà cũng không có được, cho dù lập lại nhiều lần câu nói “[Con] xin quy y”, ngoại trừ chỉ là lợi ích của những lời nói và sẽ không đến được với sự quy y thanh tịnh. Nói chung về nhân của sự quy y là khiếp sợ bất kỳ những loại đau khổ nào của mình và người, và từ đó tin tưởng vào đối tượng quy y có được năng lực cứu thoát, đó là hai cái nhân chính yếu.
            Hỏi: Đối tượng quy y là mỗi một Tam Bảo [Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo] làm cách nào mà có được năng lực cứu thoát từ nỗi sợ hãi của những đau khổ trong các cõi ác và luân hồi?
            Phương pháp có được năng lực đó là, đầu tiên bản chất và khác biệt của phẩm hạnh nơi mỗi một Tam Bảo nếu nhận thức thật tốt về những điều đó thì sẽ có được sự hiểu biết, cho nên trước hết bản chất của mỗi một Bảo là, đối với Phật Bảo chẳng hạn như, thứ nhất phẩm hạnh của Thân sở hữu được phẩm hạnh vô biên của ba mươi hai tướng hảo và tám mươi vẻ đẹp tùy hình v.v… Về phẩm hạnh của Ngữ sở hữu được phẩm hạnh của sáu mươi chi âm thanh vi diệu v.v… Về phẩm hạnh của Ý sở hữu được các phẩm hạnh đoạn trừ không sót lại gồm có những sở đoạn (cái loại bỏ), tập khí, hai chướng v.v… và trí tuệ viên mãn liễu ngộ trực tiếp nhất thiết pháp của sở tri như sở hữu tánh và [sở tri] tận sở hữu tánh, và bước vào tâm bi vô thượng đối với tất cả mọi người không còn [phân biệt] người thân kẻ lạ, có được uy lực vô quái ngại và năng lực cứu cánh bất khả tư nghì đối với việc thành tựu hoàn toàn viên mãn việc làm lợi ích cho mình và người khác (tự lợi lợi tha), ba Thân Ngữ Ý giống như thế và sở hữu được phẩm hạnh vô thượng của trí bi dũng vì vậy được gọi là Đức Phật.
            Nói về Pháp Bảo là nói về hai: Thắng Nghĩa Pháp Bảo (Pháp Bảo Chân Đế) và Thế Tục Pháp Bảo (Pháp Bảo Tục Đế). Pháp thù thắng là Thắng Nghĩa Pháp Bảo, đó là đối với Dòng Thánh có được Đạo Đế là cách đối trị để đoạn trừ tận gốc rễ bất kỳ sở đoạn nào như phiền não v.v… Tương tự vậy Diệt Đế cũng giống như oai lực của Đạo Đế làm đoạn trừ tận gốc rễ bất kỳ sở đoạn nào như phiền não v.v… Hai Đạo Đế và Diệt Đế của Dòng Thánh đó là Thắng Nghĩa Pháp Bảo. Thế Tục Pháp Bảo đó là những Luận điển v.v… nhằm để thích nghĩa cho những Lời của Đức Phật (Kinh) được giảng dạy không sai lầm tất cả những Thắng Nghĩa Pháp Bảo đó. Ngoài ra từ những thiện hạnh vi tế trở lên đến những giới luật từ bỏ mười bất thiện hạnh của những phàm phu với tâm tương tục (*) cũng được đặt định tính vào Thế Tục Pháp Bảo.
            Giống như thế Tăng Bảo cũng được phân biệt có hai là Thắng Nghĩa [Tăng Bảo] và Thế Tục Tăng Bảo. Được gọi là Thắng Nghĩa Tăng Bảo đó là những Bậc Thánh Giả (*) chân thật của ba thừa sở hữu được bất kỳ loại nào là Đạo Đế hay Diệt Đế. Nói về Thế Tục Tăng Bảo là hợp chung lại từ bốn trở lên những vị tỳ kheo phàm phu (*) sở hữu được Giới Luật Cụ Túc được gọi là Thế Tục Tăng Bảo. Đó chỉ là sự nhận biết đơn thuần sơ lược về bản chất của mỗi một Tam Bảo. Phương pháp mà Tam Bảo cứu thoát người khác từ nỗi sợ hãi được ví như cứu thoát từ nỗi sợ hãi gây ra bởi căn bệnh mà một bệnh nhân trầm trọng đang mang một chứng bệnh đau, phương pháp để giải thoát từ những nguyên nhân và bản chất của chứng bệnh là những cách điều trị cực kỳ tinh xảo, và người đã ban cho những thứ thuốc cùng với phương pháp tinh xảo đó là một vị lương y tinh thông đã cứu thoát [bệnh nhân] từ nỗi đau khổ của bệnh tật, tương tự như thế Đức Phật Đấng Thế Tôn cũng đã liễu giải như thật (hiểu biết chính xác) những cái nhân cùng với đau khổ của chúng sanh, công hạnh cứu thoát chúng sanh từ những đau khổ bằng cách giảng dạy không tà kiến đạo thậm thâm là phương pháp giải thoát từ [những đau khổ] đó.
            Pháp Bảo cũng giống như thế là phương thuốc tinh tế phá trừ tận gốc rễ căn bệnh và cái nhân của nó, Đức Phật đã tuyên thuyết Đạo [Pháp] và Diệt Pháp, trao cho sự quy y để thật sự cứu thoát từ nỗi sợ hãi bằng cách diệt bỏ và đoạn trừ tận gốc rễ bao gồm sở tri chướng và phiền não [chướng], chúng là cái nhân của sự đau khổ.
            Tương tự như thế Tăng Bảo là người điều dưỡng hiền lương sống cùng với người bệnh, trong các hoạt động như đi tản bộ, nằm nghĩ ngơi, ăn, uống v.v… và cách sử dụng phương thuốc tốt lành v.v… đi theo sau người thầy thuốc tinh thông làm bất cứ điều gì có lợi cho bệnh nhân. Giống như thế Tăng Bảo cũng tự thân mình thành tựu như lý các Pháp Vi Diệu đã được Đức Phật Đấng Khai Thị giảng dạy, đối với những bằng hữu khác thực hành cứu thoát từ nỗi sợ hãi bằng cách giúp đở khuyến khích cùng thành tựu như lý. Vì vậy, mặc dù thầy thuốc tinh thông trao cho phương thuốc tốt lành nếu bệnh nhân không dùng thì dù có thầy thuốc, thuốc và điều dưỡng v.v… tốt lành như thế nào cũng sẽ không giải thoát khỏi từ căn bệnh, tương tự như vậy Đấng Khai Thị Đức Phật đã giảng dạy Giáo Pháp nếu bản thân mình không đưa vào thực hành đúng như lý thì đại oai lực của ba Đức Phật, Giáo Pháp, Tăng Già sẽ không thể cứu thoát hoàn toàn từ nỗi sợ hãi của những đau khổ. Từ Kinh điển đã có thuyết:
“Chư Phật đã không rửa sạch ác nghiệp bằng nước,
Không xóa tan đau khổ của chúng sanh bằng tay,
Không chuyển di liễu ngộ của mình sang người khác,
Chính Pháp chân thật này là Giáo Lý giải thoát.”
Cũng tương tự như vậy trong Kinh Tam Muội Vương đã thuyết như vầy:
“Lấy được nhiều thuốc tốt và quý giá nếu,
chuyển hóa căn bệnh cuộc sống mà không dùng thuốc,
thầy thuốc không phạm lỗi và thuốc không có lỗi,
lỗi lầm là ở chính bệnh nhân đó”
            Bằng cách hiểu biết cho tốt phương pháp quy y và phẩm hạnh của đối tượng quy y là cái nhân làm việc quy y thì cực kỳ quan trọng, không chỉ vậy quy y đó cũng giống như bước vào cánh cửa của Người Phật Tử.

(*) Trong Đạo Phật những Bậc Thánh Giả (Phạn: Aryan) là những vị đã thông suốt qua văn tư tu, và đã đạt được năng lực liễu ngộ trực tiếp chân thật nghĩa, đi theo con đường Du Già Hiện Thức. Tất cả những người khác đều là phàm phu (chúng sanh tầm thường), và dòng tương tục của tâm thức là dòng chảy trong khoảnh khắc tâm lý hoặc những sự kiện tạo thành chúng sanh.
Nguyên tác Tạng ngữ từ “Lesson 4”, trong Giáo trình Phật Pháp “Lectures on Tibettan Religious Culture” của Geshe Lhundup Sopa, do Viện Văn Khố Tây Tạng LTWA (Library of Tibetan Works and Archives) phát hành. Tựa đề của bài do người dịch đặt, trong nguyên tác không có tựa đề.
Ngữ Lực Giới Hiền (Ngawang Tsultrim Zangpo) dịch từ Tạng văn sang Việt văn, qua sự giảng dạy của thầy tỳ kheo Penpa Tsering, trường Cao học Tây Tạng Sarah.


BÀI 5: Học thuyết Tông phái Phật Giáo
            Hỏi: Phật Giáo và học thuyết Tông phái Phật Giáo (1) hai cách gọi đó có khác biệt không?
            Hai [cách gọi] đó có khác biệt chút ít. Tất cả học thuyết Tông phái Phật Giáo là Phật Giáo nhưng không có khẳng định toàn bộ Phật Giáo là học thuyết Tông phái Phật Giáo. Nói chung, quan điểm của Phật Giáo là nếu chấp nhận học thuyết Tông phái thì là Phật Giáo, thêm nửa phải chấp nhận cái được gọi là Kiến Giải Tứ Pháp Ấn là đặc thù của Phật Giáo. Kiến Giải Tứ Pháp Ấn được nói đến gồm có: Chư hành vô thường, Hữu lậu thị khổ, Chư pháp vô ngã, Niết bàn tịch tĩnh. Hơn thế nửa, nói về ‘Chư hành’ thì nói đến hết thảy sự vật được tạo ra hoặc sinh ra bởi nhân và duyên. Tương tự như vậy, tất cả sự vật là bản chất của sự chuyển đổi trong mỗi một khoảnh khắc (sát na) thì được gọi là sát na hay vô thường. Từ đó như cái bình v.v… cũng bị diệt trong mỗi một khoảnh khắc vi tế và là bản chất của sự chuyển đổi, đối với vậy được gọi là vô thường vi tế, và chấm dứt sự liên tục của những vật thể tương tự với nó giống như cây búa phá hủy cái bình và sự chết của những sinh vật v.v… thì được gọi là vô thường thô thiển.
            ‘Hữu lậu’ (nhiễm ô) của cái được gọi là Hữu lậu thị khổ thì: nói về ‘lậu’ thì được coi như là phiền não nên các pháp (hiện tượng) mà bao gồm nghiệp nhân quả được sinh ra bởi sức mạnh của phiền não thì những cái đó được gọi là ‘Hữu lậu’. Từ đó, tất cả đều không vượt ra khỏi bản chất của bất kỳ loại nào trong ba loại đau khổ nên được gọi là đau khổ. Ba loại đau khổ đó là, ví dụ như những đau khổ mà cảm nhận của những cơn đau bệnh v.v… là ‘Khổ khổ’, những an lạc của Hữu lậu được tích tụ bởi luân hồi kéo theo đau khổ hoặc là làm biến chuyển đau khổ cho nên [được gọi là] ‘Hoại khổ’, và đối với hết thảy những pháp Hữu lậu thông qua sự chi phối của nghiệp và phiền não không có được tự chủ thì được gọi là ‘Biến hành khổ’ (đau khổ vận hành khắp mọi nơi).
            Nói về Chư pháp vô ngã thì, pháp đó là nói về hết thảy bất kỳ cái gì tồn tại (nhất thiết sở hữu) mà không tính đối với duy chỉ những pháp thiện hạnh. Đối với ‘Vô ngã’ thì có hai là ‘pháp vô ngã’ và ‘nhân vô ngã’, tuy nhiên vô ngã ở trong Tứ Pháp Ấn ở đây là không nói đến pháp vô ngã mà phải nói đến nhân vô ngã. Bởi vì, pháp vô ngã đó chính từ phái Duy Thức Tông (Yogacara) trở lên thì chấp nhận nhưng Hữu Bộ Tông (Vaibhasika) và Kinh Bộ Tông (Sautrantika) cả hai không thừa nhận. Vì vậy trong hệ thống Chư pháp vô ngã thì, tất cả các phái khác công nhận rằng có một bản chất đơn nhất, không bộ phận, thường hằng, bản thể khác biệt (tánh dị) so với các uẩn là cái ngã tồn tại khả năng độc lập (độc lập thật hữu) hoặc sự tự chủ của người thống trị (điều khiển) đối với các pháp (hiện tượng) của các uẩn v.v… Công nhận rằng cái ngã giống như thế bị Kinh điển và Luận lý diệt bỏ và không có [tồn tại], đó là đặc trưng riêng biệt của Phật Giáo. Có những lý luận khác thừa nhận cái nhân vô ngã vi tế cao cấp hơn so với chính những trường phái ở trên đó, tuy nhiên tạm thời không đề cập đến. Cái vô ngã của sự tự chủ, đơn nhất, thường hằng giống như thế hài hòa với tất cả các Tông phái của Phật Giáo. Nhưng mà từ nội bộ tế mục của Hữu Bộ Tông là một vài Độc Tử Bộ (2) v.v… có nói thừa nhận [cái ngã] tồn tại khả năng độc lập mà không đề cập đến các uẩn và đơn nhất hoặc khác biệt, thường hằng hoặc vô thường. Vì vậy cho nên các nhà hiền triết đã đưa ra nhiều tranh luận đối với điều tương tự như Hữu Bộ Tông [rằng họ] phải hay không phải là một Tông phái Phật Giáo mà chấp nhận quan điểm Phật Giáo (3). Cũng thế, vài nhà hiền triết đã nói rằng: “Tương tự như Hữu Bộ Tông họ chấp nhận ‘nhân có ngã’ nên nói chung [họ] chỉ đơn thuần là Phật Giáo tuy nhiên họ không phải là Tông phái Phật Giáo bởi dựa vào các quan điểm [của họ]”. Cũng có vài nhà hiền triết đã nói rằng: “Mặc dù họ chấp nhận cái ngã có khả năng tồn tại độc lập cũng chấp nhận cái vô ngã mà tự chủ, đơn nhất, thường hằng giống như sự thừa nhận của ngoại đạo cho nên họ là Tông phái Phật Giáo bởi dựa vào các quan điểm [của họ]” v.v… có nhiều cách để giải thích điều đó.
            Được gọi là Niết bàn tịch tĩnh (Niết bàn: thoát ly ưu khổ) thì, nói về ‘ưu khổ’ là tạo ra đau khổ của luân hồi rồi từ đó cái nhân cùng với cách đối trị là đoạn trừ bằng Đạo Đế hay còn được gọi là quả vị giải thoát tịch tĩnh toàn triệt (tận gốc rễ). Hơn nửa, gốc rễ tận cùng của những phiền não, cái nhân đau khổ của vòng luân hồi, chính là chấp ngã. Cách đối trị của việc đoạn trừ tận gốc rễ là Đạo Đế mà liễu ngộ trực tiếp ý nghĩa của vô ngã. Cho nên từ đó không có cách đoạn trừ tận gốc rễ phiền não mà không tu hành. Cho nên những kẻ ngoại đạo đã thừa nhận ‘tịch tĩnh tối hậu’ đó là: cách đối trị bằng phương pháp đoạn trừ chấp ngã gốc rễ của luân hồi là không bao giờ tu hành, [họ] quan niệm rằng đạt được giải thoát và tịch tĩnh tối hậu bằng cách nắm giữ con đường giải thoát chỉ là một vài đặc trưng của hữu lậu (nhiễm ô) như là không ăn thực phẩm, và đốt cháy thân xác, tắm rửa ở sông Hằng  v.v… là các việc hành khổ thân xác và dùng máu thịt của việc giết hại chúng sanh để cúng tế v.v… Cho nên bản chất của tịch tĩnh chính là Phạm Thiên (Brahma) và Biến Nhập Thiên (Visnu) v.v… là một vài đặc trưng của thế gian thần, và lìa bỏ một phần chỉ là sự đè nén tạm thời những phiền não hiển hiện thông qua sở đoạn của thế gian đạo v.v… chỉ là một vài đặc trưng của hữu lậu (nhiễm ô).

(1)     Tông phái Phật Giáo (các trường phái tư tưởng Phật Giáo) có 4 đó là: thuộc Hinayana có 2: Hữu Bộ Tông (Vaibhasika) và Kinh Bộ Tông (Sautrantika), và thuộc Mahayana có 2: Duy Thức Tông (Yogacara hoặc Cittamatra) và Trung Quán Tông (Madhyamika).
(2)     Trong nội bộ tế mục của Hữu Bộ Tông (Chánh Lượng Bộ) phân chia thành ba là: Kê Dận Bộ, Thủ Hộ Bộ, Độc Tử Bộ (Khả Trụ Tử Bộ).
(3)     Tất cả các Tông phái Phật Giáo dù ở Hinayana hay ở Mahayana, dù ở Tông phái nào thì cũng đều thừa nhận quan điểm Phật Giáo là Kiến Giải Tứ Pháp Ấn. Ở đây đưa ra tranh luận rằng: Hữu Bộ Tông họ có chấp nhận quan điểm Phật Giáo là Kiến Giải Tứ Pháp Ấn vì vậy họ có phải hay không phải là một Tông phái Phật Giáo.
Nguyên tác Tạng ngữ từ “Lesson 5”, trong Giáo trình Phật Pháp “Lectures on Tibettan Religious Culture” của Geshe Lhundup Sopa, do Viện Văn Khố Tây Tạng LTWA (Library of Tibetan Works and Archives) phát hành. Tựa đề của bài do người dịch đặt, trong nguyên tác không có tựa đề.
Ngữ Lực Giới Hiền (Ngawang Tsultrim Zangpo) dịch từ Tạng văn sang Việt văn, qua sự giảng dạy của thầy tỳ kheo Penpa Tsering, trường Cao học Tây Tạng Sarah.
 

Thứ Tư, 27 tháng 8, 2014

Bài nguyện vãng sinh Tây Phương Tịnh Độ Cực Lạc Quốc



Bậc hiền triết Ra-ga A-sya trước tác
Bài cầu nguyện vãng sinh về cõi
Thanh Tịnh Cực Lạc.



Đây là Chag-med kho tâm Pháp,
Dù tay bị đau vẫn ráng viết,
Nghĩ lợi ích với rất nhiều người,
Không có nào hơn viết, đọc, tụng,
Không có lợi lạc lớn hơn đây,
Không có giáo huấn sâu hơn đây,
Căn bản giáo Pháp của chính ta,
Đừng tự vứt bỏ hãy thực hành,
Vì đây là hệ Kinh thừa nên,
Không nhận khẩu truyền vẫn tụng được.
Hóa diệu thay!
Từ đây thẳng hướng phía Tây mặt trời lặn,
Băng qua rất nhiều vô số các thế giới,
Hơi hướng lên trên có một nơi Thánh Cảnh,
Cõi nước gọi là Thanh Tịnh Cực Lạc Bang,
Mặc dù mắt trần của con không thấy được,
Cảnh của tự tâm thanh tịnh thấy chói ngời,
Nơi đó Thế Tôn Chiến Thắng Vô Lượng Quang,
Thân sắc hồng ngọc cánh sen tỏa huy quang,
Nhục kế trên đảnh, Pháp luân ở bàn chân,
Ba hai tướng hảo, tám mươi vẻ tùy hình,
Một mặt, hai tay nhập định, trì bình bát,
Thân khoác ba loại Pháp y, ngồi kiết già,
Tòa sen ngàn cánh, trên là nệm mặt trăng,
Cội cây Bồ Đề sau lưng làm chỗ tựa,
Dùng mắt đại bi từ xa dõi nhìn con.
Phía bên phải là Bồ tát Quán Thế Âm,
Sắc thân trắng sạch, tay trái cầm sen trắng,
Phía bên trái là Bồ tát Đại Thế Chí,
Sắc xanh, biểu tượng kim cang trên sen trái,
Tay phải hai vị ban ấn Thí Độ con,
Ba vị tôn chủ như núi Tu Di Vương,
Sừng sửng, nguy nga, sáng lạng, an nhiên trụ,
Ngàn tỷ Bồ tát, Tỳ kheo vi nhiễu quanh,
Hết thảy sắc vàng, nghiêm sức tướng và hình,
Đắp ba Pháp y, ánh vàng tỏa lấp lánh,
Tay cung kính chấp xa gần không khác biệt,
Ba cửa của con chí thành cung kính lễ.
Pháp thân Chủ bộ Liên Hoa Vô Biên Quang,
Hào quang tay phải hóa thành Quán Thế Âm,
Lại hóa một tỷ Bồ tát Quán Tự Tại,
Hào quang tay trái hóa thành Lục Độ Mẫu,
Lại hóa xuất ra một tỷ Cứu Độ Mẫu,
Hào quang từ tim hóa thành Liên Hoa Sinh,
Lại hóa xuất ra một tỷ Đức Or-gyen,
Pháp thân Vô Lượng Quang Phật cung kính lễ.
Mắt từ của Phật ngày đêm sáu thời thường,
Dùng lòng bi mẫn quán sát khắp chúng sinh,
Tâm ý của chúng hữu tình nhớ nghĩ gì,
Niệm tưởng ra sao tâm Ngài luôn thấu biết,
Từ miệng các chúng hữu tình nói lời nào,
Tai luôn lắng nghe mỗi một không sai lạc,
Biến tri Vô Lượng Quang Phật cung kính lễ.
Thuyết rằng ngoại trừ bỏ Pháp, tạo Vô Gián,
Hết thảy những ai kính tin, cầu nguyện Ngài,
Thành tựu kỳ nguyện vãng sinh về Cực Lạc,
Đến trong trung ấm dẫn dắt về cõi đó,
Tiếp dẫn Vô Lượng Quang Phật cung kính lễ.
Thọ hạn của Ngài trải qua vô số kiếp,
Không nhập Niết bàn, hiện tại chân thật trụ,
Nhất tâm thành kính cầu nguyện đến Ngài thì,
Thuyết rằng ngoại trừ nghiệp quả đã chín mùi,
Dù thọ mạng tận cũng được một trăm tuổi,
Xua tan không sót các loại chết phi thời,
Thủ hộ Vô Lượng Thọ Phật cung kính lễ.
Thuyết rằng bố thí châu báu tràn đầy trong,
Ba ngàn thế giới vô biên vô số kể,
Hồng danh Vô Lượng Quang cùng Cực Lạc Quốc,
Lắng nghe xong rồi cung kính chấp hai tay,
Lấy công đức này so kia lớn hơn nhiều,
Vì thế con thành kính lễ Vô Lượng Quang.
Bất kỳ ai nghe hồng danh Vô Lượng Quang,
Tâm khẩu bất phân, sâu tận từ tâm tủy,
Dù chỉ một lần phát khởi lòng thành kính,
Như thế không bị thoái chuyển Đạo Bồ Đề,
Thủ hộ Vô Lượng Quang Phật cung kính lễ.
Nghe được hồng danh Đức Phật Vô Lượng Quang,
Trong khi chưa chứng tâm yếu quả Bồ Đề,
Không sinh thân nữ, sinh vào dòng tộc quý,
Hết thảy các đời giới hạnh được thanh tịnh,
Thiện thệ Vô Lượng Quang Phật cung kính lễ.
Thân và thọ dụng, thiện căn của con đây,
Cúng dường hiện thực tài vật có bao nhiêu,
Tâm hóa tám món cát tường, bảy món báu,
Từ thuở hình thành ba ngàn thế giới như,
Một tỷ Tu Di, bốn châu cùng nhật nguyệt,
Hết thảy thọ dụng của trời, người và rồng,
Tâm trí quán tưởng dâng cúng Vô Lượng Quang,
Xin nhận bằng lực đại bi để lợi con.
Đứng đầu cha mẹ chúng con, các chúng sinh,
Từ thời vô thủy cho đến hiện tại nay,
Gây tạo sát sinh, trộm cướp, phi phạm hạnh,
Ba nghiệp bất thiện của thân phát lồ sám.
Vọng ngữ, ly gián, ỷ ngữ, thô ác ngữ,
Bốn nghiệp bất thiện của khẩu phát lồ sám.
Tham tâm, sân tâm, cùng với tà kiến tâm,
Ba nghiệp bất thiện của ý phát lồ sám.
Giết hại cha mẹ, Phạm sư, A-la-hán,
Sinh khởi ác tâm nơi thân Đấng Chiến Thắng,
Tích tạo năm nghiệp Vô Gián phát lồ sám.
Giết hại Tỳ-kheo, Sa-di, hãm hiếp Ni,
Phá hủy Thánh tượng, Bảo tháp, Phật điện chùa,
Gây tạo tội cận Vô Gián phát lồ sám.
Ba nương tựa như Tam Bảo, Phật điện, Kinh,
Chửi mắng, làm chứng thề thốt tương tự thế,
Tích tập ác nghiệp bỏ Pháp phát lồ sám.
Nặng hơn tội giết hết chúng trong Tam giới,
Là tội mạt sát, phỉ báng chư Bồ tát,
Tích tập trọng tội vô nghĩa phát lồ sám.
Lợi lạc thiện hạnh, tội báo của ác hạnh,
Thống khổ địa ngục, thọ mạng tương tự thế,
Nghe nhưng cho rằng không thật, giả thuyết, tưởng,
Ác nghiệp nguy hại còn hơn Ngũ Vô Gián,
Tích tập ác nghiệp khó thoát, phát lồ sám.
Bốn tội Tha Thắng, mười ba tội Tăng Tàn,
Ba mươi Xả Đọa, năm bộ tội Ác Tác,
Vi phạm Biệt Giải Thoát Giới phát lồ sám.
Bốn pháp đen ác, mười tám trọng tội đọa,
Suy hoại Bồ tát Giới học phát lồ sám.
Mười bốn căn bản, mười tám nhánh thô đọa,
Suy hoại thệ nguyện Mật Chú phát lồ sám.
Tạo nghiệp bất thiện khi chưa thọ giới luật,
Như phạm tà dâm, uống rượu tương tự thế,
Ác hạnh phạm phải tội lỗi Tự Tánh Tội,
Tội lỗi không hiểu các tội phát lồ sám.
Dù đã thọ giới quy y và quán đảnh,
Giới luật, thệ nguyện như thế không biết giữ
Vi phạm tội đọa Phật chế phát lồ sám.
Nếu không hối cải, sám hối không thanh tịnh,
Tội lỗi trước tạo như uống nhầm thuốc độc,
Vô cùng xấu hỗ, lo sợ, ăn năn sám,
Nếu không phòng tâm về sau tội không sạch,
Tâm giữ thệ nguyện về sau dù mất mạng,
Các nghiệp bất thiện từ nay sẽ không làm.
Thiện thệ Vô Lượng Quang cùng chư trưởng tử,
Gia trì tịnh hóa hoàn toàn dòng tâm con.
Khi nghe biết được người khác làm việc thiện,
Ác tâm đố kỵ với họ xin từ bỏ,
Từ tận đáy lòng hoan hỷ vui mừng theo,
Thuyết rằng sẽ được công đức ngang bằng họ,
Vì thế các hàng Thánh giả cùng phàm phu,
Thành tựu bao nhiêu thiện hạnh tùy hỷ hết,
Ai phát Vô thượng thù thắng Bồ đề tâm,
Công hạnh quảng đại lợi sinh, con tùy hỷ.
Làm mười việc thiện, đoạn trừ mười việc ác,
Cứu mạng loài khác, thực hành hạnh bố thí,
Trì giữ giới luật, nói lời chân thật ngữ,
Dùng lời thiện lương, chính trực giải oán thù,
Nói chuyện đủ đầy ý nghĩa, ít tham muốn,
Thiền quán lòng từ và bi, hành Chánh Pháp,
Tất cả các hạnh lành đó, con tùy hỷ.
Hết thảy vô biên thế giới khắp mười phương,
Ai vừa Viên Thành Chánh Giác không bao lâu,
Đối trước các Ngài tâm thành con khuyến thỉnh,
Nhanh chóng xoay chuyển quảng đại Diệu Pháp Luân,
Khẩn thỉnh dùng ý thần thông hiểu nghĩa này,
Chư Phật, Bồ tát, Trì Giáo Thiện Tri Thức,
Hết thảy các Ngài ý muốn nhập Niết bàn,
Thành tâm cầu thỉnh đừng trụ vào Niết bàn.
Ba đời thiện hạnh của con gom góp được,
Hồi hướng vì lợi chúng sinh, khắp hữu tình,
Hết thảy nhanh đắc Vô thượng Bồ đề rồi,
Nguyện khuấy tận đáy cả ba cõi luân hồi.
Các thiện hạnh đó của con nhanh chín mùi,
Đời này tịch trừ mười tám chết phi thời,
Tuổi xuân tăng tiến, không bệnh, thân đầy lực,
Tài lộc vô tận tựa như mưa sông Hằng,
Thực hành Diệu Pháp không bị ma chướng hại,
Hết thảy ước nguyện theo Pháp như ý thành,
Hoằng Pháp, lợi sinh quảng đại đắc thành tựu,
Nguyện thân người này tu hành đầy ý nghĩa.
Nguyện con và ai kết nối con,
Nơi đây mạng chung không bao lâu,
Hóa thân Đức Phật Vô Lượng Quang,
Tăng đoàn Tỳ-kheo vi nhiễu quanh,
Quang lâm hiển hiện ngay trước mặt.
Nguyện con nhìn thấy tâm vui mừng,
Xóa tan đau khổ của cái chết.
Nguyện xin tám vị đại Bồ tát,
Dùng thần thông lực đến trên không,
Chỉ bày con đường, tiếp dẫn con,
Vãng sinh đi về Cực Lạc Quốc.
Thống khổ ác đạo khó nhẫn chịu,
Hỷ lạc trời người không thường hằng,
Nguyện con khởi tâm khiếp sợ chúng.
Từ thời vô thủy đến ngày nay,
Chìm nổi lâu trong luân hồi này,
Nguyện con khởi tâm chán nản chúng.
Dù lại sinh ra trong cõi người,
Sinh, lão, bệnh, tử trải vô số,
Mạt thời, ác thế đầy cấu trược,
Lạc thú trong cõi trời và người,
Cũng như thức ăn trộn thuốc độc,
Nguyện không tham muốn dù sợi lông.
Tài sản, bằng hữu kề cận bên,
Vô thường, huyễn ảo như giấc mộng.
Nguyện không bám luyến dù sợi lông.
Ruộng vườn, nhà cửa, chốn quê hương,
Như là quán trọ trong cảnh mộng,
Nguyện hiểu ra rằng không chân thật.
Nơi biển luân hồi không lối thoát,
Như kẻ trọng tội chốn lao tù,
Chạy thoát ra khỏi không nhìn lại,
Thẳng về thanh tịnh Cực Lạc Quốc.
Đoạn hết bám chấp và tham luyến,
Như chim kền kền thoát lưới giăng,
Bay về bầu trời ở phương Tây,
Vượt qua vô số cõi thế giới,
Trong khoảng sát na đã đến nơi,
Nguyện con đi về Cực Lạc Quốc.
Nơi đó Đức Phật Vô Lượng Quang,
Chân thật an trụ, diện kiến Ngài,
Nguyện con thanh tịnh tất cả chướng.
Thù thắng nhất trong bốn nơi sinh,
Là sinh trong tim đóa hoa sen,
Nguyện con nhận được hóa sinh này,
Chính khoảng khắc này thân viên mãn,
Nguyện con đắc được thân tướng hảo.
Hoài nghi lo sợ không vãng sinh,
Nên trải trong khoảng năm trăm năm,
Bên trong thọ dụng, đầy an lạc,
Dù lắng nghe được Phật thuyết Pháp,
Nhưng hoa sen không khai nở ra,
Lỗi lầm chậm trễ diện kiến Phật,
Nguyện con không bị giống như thế.
Sinh ra không lâu hoa khai nở,
Nguyện con thấy Phật Vô Lượng Quang.
Dùng lực công đức và thần thông,
Từ lòng tay hiện mây cúng dường,
Biến hóa vô số không nghĩ bàn,
Nguyện dâng cúng Phật và Thánh chúng.
Khi đó Như Lai Vô Lượng Quang,
Duỗi cánh tay phải xoa đầu con,
Nguyện đắc thọ ký quả Bồ đề.
Nghe Pháp thâm sâu và quảng đại.
Nguyện tự tâm con thành thục thoát.
Quan Thế Âm cùng Đại Thế Chí,
Bồ tát trưởng tử của hai Ngài,
Nguyện ban gia trì, nhiếp thọ con.
Mỗi ngày con dâng cúng dường đến,
Vô Lượng Quang Phật cùng vô số,
Chư Phật, Bồ tát khắp mười phương,
Khi đến viếng thăm Tịnh độ này,
Thân cận phụng sự hết các Ngài,
Nguyện con thọ nhận cam lồ Pháp.
Dùng lực thần thông không ngăn ngại,
Sáng sớm du hành đến các cõi,
Tịnh thổ Diệu Hỷ và Hữu Đức,
Cực Viên Hạnh Nghiệp, Mật Nghiêm Quốc,
Của các vị như Bất Động Phật,
Bảo Sinh, Thành Tựu, Đại Nhật Phật,
Thọ các quán đảnh, gia trì, giới,
Cúng dường đủ loại các cúng phẩm,
Chiều tối ở nơi Cực Lạc Quốc,
Nguyện con quay về không khó nhọc.
Cung điện Phổ Đà, Cung Dương Liễu,
Cõi Phất Châu cùng Cõi Or-gyen,
Một tỷ tịnh độ của hóa thân,
Một tỷ Quan Âm và Độ Mẫu,
Kim Cang Thủ và Liên Hoa Sinh,
Diện kiến dâng cúng biển cúng dường,
Nhận quán đảnh và giáo huấn sâu,
Nhanh chóng tại nơi Cực Lạc Quốc,
Nguyện con về ngay không chướng ngại.
Họ hàng huynh đệ tu thuở trước,
Con dùng thiên nhãn thấy rõ ràng,
Thường xuyên gia trì và bảo hộ,
Nguyện chết tiếp dẫn về cõi này.
Khoảng đại kiếp của Hiền Kiếp này,
Là một ngày của Cõi Cực Lạc,
Trải vô lượng kiếp không thể chết,
Nguyện con thường trụ tại cõi đó.
Từ Phật Di Lạc đến Thắng Giải,
Là Chư Phật của Hiền Kiếp này,
Khi nào giáng xuống thế gian đây,
Con dùng thần lực đến nơi này,
Cúng dường Đức Phật, nghe Thánh Pháp,
Lần nữa nơi cõi Cực Lạc Quốc,
Nguyện con đi về không chướng ngại.
Tám triệu một trăm ngàn tỷ tỷ Đức Phật,
Công đức, trang nghiêm tất cả các Phật Quốc,
Cộng hết tất cả thành một so sánh với,
Cực Lạc thắng diệu, vô thượng hơn các cõi,
Nguyện vãng sinh cõi Tịnh Độ Cực Lạc Bang.
Đất nền trân bảo bằng phẳng như tay ngửa,
Mênh mong, rộng lớn, lấp lánh tỏa hào quang,
Đè xuống thì êm, nhấc lên thì nâng đở,
Nguyện vãng sinh cõi Mênh Mong Diệu Lạc Bang.
Đủ loại trân bảo kết thành cây như ý,
Lá bằng gấm lụa, quả bằng các bảo châu,
Đàn chim hóa hiện trên cây líu lo hót,
Phát ra Pháp âm quảng đại và thâm sâu,
Nguyện vãng sinh cõi Nhiệm Mầu Hóa Diệu Bang.
Dòng sông nước thơm đủ đầy tám phẩm tính,
Cũng thế những ao tắm mát nước cam lồ,
Thềm thang, bờ rào bao quanh bằng bảy báu,
Những đóa hoa sen ngát hương, đầy quả mọng,
Hào quang từ các đóa sen tỏa vô ngần,
Đầu mỗi tia sáng trang nghiêm hóa thân Phật,
Nguyện vãng sinh cõi Cực Kỳ Hy Hữu Bang.
Không nghe âm thanh ác đạo, tám vô hạ,
Phiền não, năm độc, ba độc, bệnh và ma,
Giặc thù, nghèo đói, chiến tranh tương tự thế,
Chưa từng nghe các khổ đau trong cõi này,
Nguyện vãng sinh cõi Thanh Tịnh Đại Lạc Bang.
Không có người nữ nên không có thai sinh,
Hết thảy sinh từ trong tim đóa hoa sen,
Thân thể tất cả không khác đều sắc vàng,
Tướng hảo trang nghiêm như đầu có nhục kế,
Ai cũng đủ đầy ngũ thông và ngũ nhãn,
Nguyện vãng sinh cõi Vô Lượng Công Đức Bang.
Cung điện tráng lệ tự sinh đủ trân bảo,
Thọ dụng muốn gì tùy theo ý niệm sinh,
Không cần cố công, mong muốn tự nhiên thành,
Không có ta người nên không bám chấp ngã,
Mây cúng muốn gì liền hiện từ lòng tay,
Tất cả thực hành Vô thượng Đại thừa Pháp,
Nguyện vãng sinh cõi Nguồn Cội Hỷ Lạc Bang.
Gió thoảng đưa hương làm rơi trận mưa hoa,
Từ các gốc cây, dòng suối, đóa hoa sen,
Thường sinh đám mây cúng dường đầy thọ dụng,
Các sắc, thanh, hương, vị, xúc làm hài lòng,
Không có người nữ nhưng hóa chúng thiên nữ,
Đủ loại thiên nữ thường luôn dâng cúng dường.
Khi muốn nghỉ chân vào cung vô lượng bảo,
Khi muốn an giấc đã có diệu bảo tòa,
Cùng với gối lụa, nệm gấm, chăn hảo hạng,
Chim chóc, cây xanh, suối nước vang tiếng nhạc,
Nếu muốn lắng nghe Pháp âm trỗi du dương,
Đến khi không muốn nơi tai không nghe tiếng,
Tất cả ao hồ, sông suối nước cam lồ,
Ấm lạnh muốn sao, thế nào như thế hiện,
Nguyện vãng sinh cõi Thành Tựu Như Ý Bang.
Cõi đó Viên Mãn Chánh Giác Vô Lượng Quang,
Trụ vô lượng kiếp và chưa nhập Niết Bàn,
Nguyện làm nô bộc của Ngài trong khoảng đó,
Đến khi Vô Lượng Quang Phật vào tịch diệt,
Trong khoảng kiếp số hai lần cát sông Hằng,
Giáo Pháp của Ngài vẫn trụ ở nơi ấy,
Nguyện không rời xa bổ xứ Quán Thế Âm,
Là Đấng trì giữ Thánh Pháp trong khoảng đó.
Xế chiều hoàng hôn mặt trời Thánh Pháp lặn,
Liền trước bình minh Quan Âm hiện chánh giác,
Khi đó Pháp hiệu của Ngài được đổi là,
Phổ Quang Thánh Tôn Uy Đức Tụ Vương Phật,
Nguyện được diện kiến cúng dường nghe Thánh Pháp.
Thọ hạn trụ thế của vị Như Lai này,
Kiếp số sáu triệu sáu trăm ngàn tỷ tỷ,
Khi đó thường làm nô bộc phụng sự Ngài,
Nguyện trì Thánh Giáo giữ gìn không quên lãng.
Phật nhập Niết Bàn, Giáo Pháp trụ lại khoảng,
Kiếp số sáu trăm triệu lần ba ngàn tỷ,
Nguyện thường không rời Bồ tát Đại Thế Chí,
Là Đấng trì giữ Thánh Pháp trong khoảng đó.
Sau đó Đức Đại Thế Chí thành chánh giác,
Pháp hiệu của Ngài sẽ được đổi thành là,
Thiện Trụ Công Đức Bảo Châu Tụ Vương Phật,
Thọ hạn, Giáo Pháp ngang bằng Quán Thế Âm,
Nguyện con thường làm nô bộc hầu Phật đó,
Rộng tu cúng dường thọ trì các Thánh Pháp,
Sau đó thọ mạng con dứt không bao lâu,
Nơi Cõi Cực Lạc hoặc các Tịnh Độ khác,
Nguyện con chứng thành Vô thượng Chánh Đẳng Giác,
Viên Mãn Giác rồi giống như Vô Lượng Thọ,
Nghe danh hiệu con chúng sinh thành thục thoát,
Nguyện con hóa thân vô số dẫn chúng sinh,
Vô lượng lợi sinh không cố tự nhiên thành.
Như Lai Thiện Thệ thọ hạn và công đức,
Phẩm hạnh, diệu trí, huy quang thật vô lượng,
Pháp thân Phật Vô Biên Quang, Vô Lượng Quang,
Thế Tôn Vô Lượng Thọ cùng Vô Lượng Trí,
Hồng danh của Ngài bất kỳ ai trì niệm,
Phật thuyết ngoại trừ nghiệp quả trước chín mùi,
Sẽ được bảo hộ thoát khỏi sợ hãi như,
Dạ xoa, la sát, lửa, nước, độc, binh khí,
Nay con trì niệm đảnh lễ hồng danh Ngài,
Xin độ thoát hết khổ đau và sợ hãi,
Gia trì viên mãn thịnh vượng, đắc cát tường.
Chứng đắc Tam thân Phật Đà ban gia trì,
Bất biến Chân thật Pháp Tánh ban gia trì,
Nguyện lực Bất phân Tăng Đoàn ban gia trì,
Kỳ nguyện thế nào thành tựu như sở nguyện.
Đối trước Tam Bảo cung kính lễ.
Tad-ya-tha Pan-chan-dri-ya A-va Bo-dha Na-ye Soa-ha.


Đối trước Tam Bảo cung kính lễ!
Na-ma Man-ju Shri-ye,
Na-mo Su Shri-ye,
Na-mo Ut-ta-ma Shri-ye Sva-ha.

Thuyết rằng: tụng đọc bài chú này và đãnh lễ ba lạy sẽ nhân lên thành một trăm ngàn lần. Sau đó, tốt nhất là một trăm lạy, trung bình thì trong khả năng bao nhiêu có thể, tối thiểu thì cũng trên bảy lạy. Hơn nữa, tốt nhất là tụng đọc bài nguyện này không dừng bỏ, trung bình thì không dừng bỏ trong một năm hoặc tháng, ít nhất thì thỉnh thoảng quay mặt về hướng Tây nhớ tưởng cõi Tịnh Độ Cực Lạc trong tâm trí, với lòng thành kính chấp hai tay nhất tâm trì tụng danh hiệu Đức Phật Vô Lượng Quang thì trong đời này sẽ được xua tan hết những chướng ngại về thọ mạng, đời sau được vãng sinh về cõi Cực Lạc mà không chút nghi ngờ. Bài nguyện này là mật ý từ trong Quang Kinh (Kinh A Di Đà), Trang Nghiêm Kinh, Bạch Liên Hoa Bất Tử Cổ Âm Kinh… Do ta, Tỳ-kheo Ra-ga A-sya trước tác nguyện sẽ là nhân lành cho các hữu tình chúng sinh được vãng sinh Cực Lạc Quốc.

Hoá diệu thay!
Mầu nhiệm thiêng liêng Đức Phật Vô Lượng Quang,
Bên phải Bồ Tát Đại Bi Quán Thế Âm,
Bên trái Bồ Tát Đại Lực Đại Thế Chí,
Chư Phật, Bồ Tát vô số vi nhiễu quanh,
Vô lượng phước lạc an bình thật diệu kỳ,
Nơi cõi Tịnh Độ được gọi là Cực Lạc.
Nguyện con và người mạng chung từ nơi này,
Không bị trở ngại phải sinh vào nơi khác,
Liền sinh nơi đó diện kiến Phật Di Đà,
Nay con thành khẩn phát lời cầu nguyện này,
Cung thỉnh Chư Phật, Bồ Tát khắp mười phương,
Hết thảy gia trì thành tựu không ngăn ngại.
Tad-ya-tha Pan-chan-dri-ya A-va Bo-dha Na-ye Soa-ha.

Hồi hướng đến ánh sáng nơi Pháp xứ:
Mười phương Thắng Phật, Bồ Tát thấu,
Tùy hỷ viên mãn hai tư lương,
Con tạo thiện căn trong ba thời,
Kính dâng cúng dường nơi Tam Bảo,
Nguyện Giáo lý Phật được tăng trưởng,
Hồi hướng công đức khắp hữu tình,
Nguyệt hết chúng sinh đắc thành Phật,
Hết thảy căn lành hợp nhất lại,
Nguyện con và người tâm chín mùi,
Tịnh hóa hai chướng, đủ phước trí,
Trường thọ, không bệnh, tu chứng tăng,
Nguyện đời này vượt lên Thập Địa,
Mạng chung thần thức không bao lâu,
Nguyện vãng sinh về Cực Lạc Quốc,
Sinh trong hoa sen khai nở ra,
Nguyện nhờ thân đó chứng thành Phật,
Chừng nào đắc được Chánh Giác rồi,
Nguyện hóa thân dẫn độ chúng sinh.
Sa-ma-ya Gya-gya-gya! Như thế, Tulku Migyur Dorje (Hóa thân Bất Biến Kim Cang) lúc mười ba tuổi vào năm Điểu, tháng Cơ Túc (tháng sáu), ngày mùng một đã nhận lãnh lời từ Đức Phật Vô Lượng Quang.

Ngữ Lực Giới Hiền chuyển dịch từ Tạng văn sang Việt văn, nguyện đem công đức lành này hồi hướng đến khắp hữu tình chúng sinh thoát ly luân hồi khổ, đầy đủ phước duyên được vãng sinh về Cõi Tây Phương Tịnh Độ Cực Lạc của Đức Phật Vô Lượng Quang.
Saigon - Chợ Lớn, ngày rằm tháng bảy năm Giáp Ngọ 2014. Khẩn nguyện cát tường!