Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013

Tu tâm Thượng Sư bạt trừ mọi chướng ngại




TỪ LAME THUKDRUB BARCHED KUNSEL
TU TÂM THƯỢNG SƯ BẠT TRỪ CÁC CHƯỚNG
DU GIÀ THƯỜNG TỤNG HẰNG NGÀY GIẢN LƯỢC
Phục tàng của Đức Chokgyur Lingpa



            Du già chân nghĩa ly hí luận; Tâm yếu du già thường tụng này; Thích hợp thiền định nơi ẩn cảnh; Tích lũy tư lương hết các nhánh; Sau đó nhất tâm nhập định hành; Vào nghĩa Bổn tôn, Thần chú, Tuệ.

Na-mo
Con và hư không hữu tình không sót ai,
Nương tựa chư vị thù thắng chốn quy y,
Khi phát bồ đề tâm nguyện và tâm hành,
Quả vị Tam Thân Thượng Sư nhập tu trì.

Hung!
Từ Tánh Không Giới hiển bày toàn diệu trí,
Từ Hri nhân duyên thiền định phóng hào quang,
Hiện hữu hết thảy Tịnh cảnh Liên Hoa Võng,
Bày trí nhiệm mầu không tưởng giữa đàn tràng,
Bảo tòa sư tử, hoa sen, nệm nhật, nguyệt,
Chữ Hri lớn thành thân con trong sát na,
Là Đại Đạo Sư Or-gyen Thod-treng-tsal,
Hiện hữu uy trấn trắng hồng tướng an-nộ,
Tay phải cầm chày năm chấu giơ lên không,
Tay trái bình đẳng giữ cốc bình trường thọ,
Mật phi ẩn tướng kha-tram (cây Thiên trượng) bên vai trái,
Mão Sen, Mật phục, Pháp y choàng lộng lẫy,
Hai chân du hí, hào quang rộng trùm khắp.
Đỉnh đầu Báo thân uy quyền Quán Thế Âm,
Chủ bộ (chủ của Liên Hoa Bộ) Thủ hộ Vô Lượng Thọ an trụ,
Trên, dưới, phương, biên hóa hiện mười hai tướng,
Biển cả Tam Căn, Hộ Pháp tụ như mây,
Trí-Nguyện bất phân từ vô thủy tự thành,
Từ Hri giữa tâm Chủ bộ (Đức Vô Lượng Thọ) phóng hào quang,
Thu nhiếp lực sống hữu tịch (Sinh tử, Niết bàn) tan vào con,
Tôn Thánh Đại Bi (Đức Quán Thế Âm) oai thần điều chúng sinh,
Tịnh hóa các dòng đau khổ chúng sáu cõi,
Giữa tâm thân con Thượng Sư tổng các bộ,
Chính giữa chày kim cang vàng quanh chữ Hri,
Vòng chữ minh chú xoay vần phóng hào quang,
Cúng dường Thánh chúng, làm lợi hết hữu tình,
Ngoại khí thành Cõi Phi Hạ cực thanh tịnh,
Nội tình hiện hữu hóa thành Bổn Tôn Ấn,
Âm là minh chú, niệm là Quang Minh Cảnh,
Sự nghiệp bốn nghiệp bình phàm tự nhiên thành,
Thù thắng bất động Đại Lạc Kim Cang Cảnh,
Chứng đắc quả vị Bất Tử của Tam Thân.

Om Ah Hung, Ben-gia Gu-ru Pe-ma Sid-dhi Hung

            Ba chữ (Om Ah Hung) Ba Thân vô phân biệt; Ben-gia Gu-ru chủ của bộ; Pe-ma biến hiện vòng đàn tràng, Sid-dhi Hung là trao thành tựu; Ba cận, tu, nghiệp gọp thành một, Mật Chú Kim Cang làm các nghiệp; Cuối cùng Thượng Sư tổng các bộ; Đặt trọn tâm ý thỉnh nguyện cầu.

Hô!
Nguyện lực tu trì đàn tràng Trì Minh Sư,
Con và vô biên chúng sinh không sót ai,
Cả bốn sự nghiệp tự nhiên đắc thành tựu,
Thoát từ cảnh giới Quang Minh của Pháp Thân.

Gia trì Căn, Truyền Thượng Sư trụ nơi tâm,
Bổn tôn, Không hành giúp như hình với bóng,
Hộ Pháp, Thủ hộ tich trừ hết chướng ngại,
Thành tựu chân thật thắng, phàm, nguyện cát tường.

Căn bản Thượng Sư mọi thời cùng, Tôn chủ vĩ đại Đấng Padma (Liên Hoa), Bất phân, thành khẩn thỉnh nguyện cầu, Đắc chân thành tựu trừ mọi chướng, Samaya gya gya gya!
Chánh đẳng bí mật từ Phục tàng thâm sâu của Đại Khai Mật Tạng hóa thân, Choggyur Dechen Lingpa.

Nhân duyên nhận được sự khẩu truyền bản văn này từ Kyabje Chogling Rinpoche và nhận sự chỉ dẫn từ Tulku Dorje ở tu viện Ka-Nying, Ngữ Lực Giới Hiền dịch từ Tạng văn sang Việt văn gửi tặng các đạo hữu có cùng nhân duyên trong chuyến cúng dường thỉnh Pháp tại Đại Bảo Tháp Boudha, nguyện công đức nhỏ này là duyên lành để mọi người thuận duyên tu tập cầu nguyện đến Guru Rinpoche bạt trừ mọi chướng ngại trên đường tu, chư Thánh sư được trường thọ và nguyện hết chúng sinh đắc thành Phật quả.
Kathmandu, ngày 31 tháng 10 năm 2013.

Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2013

Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật


KHO TÀNG GIA TRÌ - NGHI QUỸ ĐỨC PHẬT


Đức Phật Shakya Muni cùng chư vị A La Hán

Na-mo Gu-ru Sha-kya Mu-na Ye.

Như trong Kinh Tam Muội Vương có thuyết:
“Khi đi, khi đứng, khi nằm và khi ngồi,
Người nào nhớ tưởng vầng trăng Đức Năng Nhân,
Bổn Sư thường hằng an trụ trước người đó,
Người đó sẽ đắc quảng đại quả Niết Bàn”.

Và:
“Thân thể thanh tịnh như sắc màu vàng kim,
Hổ Chủ Thế Gian khắp thảy cực trang nghiêm,
Người nào để tâm chuyên chú quán như vậy,
Đó là nhập định nơi các hàng Bồ Tát.”

Như đã tuyên thuyết, nên phải thực hành du già thường tuỳ niệm tưởng Đức Năng Nhân Vương, Bổn Sư vô đẳng của tất cả chúng ta. Như vậy thì:

            [Quy y – Phát tâm:]

Chư Phật, Chánh Pháp, Tăng Già thù thắng bảo,
Cho đến giác ngộ con nguyện nương quy y.
Công đức có được như con hành bố thí,
Nguyện thành Phật Quả vì lợi ích chúng sinh.

Ba lần và:

Nguyện hết thảy hữu tình có được an lạc và nhân của an lạc.
Nguyện [hết thảy hữu tình] viễn ly đau khổ và nhân của đau khổ.
Nguyện [hết thảy hữu tình] bất ly sự an lạc tối thượng không có đau khổ.
Nguyện [hết thảy hữu tình] trú trong xả vô lượng viễn ly ái tằng, thân sơ.
(người thương kẻ ghét, người thân kẻ lạ)
 Ba lần.

Trước lúc phát tâm tu tứ vô lượng, thì trong trạng thái tâm ý nhớ tưởng đến ý nghĩa tự tánh bất thành lập đối với hết thảy các pháp (hiện tượng) hiển hiện.

            [Quán tưởng:]

Ah! Vô sinh Không Tánh cùng với Duyên Khởi Tánh,
Quang minh vô ngại song vận lý huyễn ảo,
Hư không trước ta biển cả mây cúng dường,
Bảo toà sư tử, trên hoa sen, nhật, nguyệt.
Bổn Sư vô đẳng, sư tử tộc Sha-kya,
Hảo tướng, tuỳ hình đầy đủ sắc vàng kim,
Đắp Tam Pháp Y, ngồi thế kim cương toạ.
Tay phải duỗi thẳng trong thế Xúc Địa Ấn,
Tay trái giữ bát cam lồ Bình Đẳng Ấn,
Như núi vàng kim uy nghi phổ chiếu quang,
Trùm khắp hư không lưới hào quang trí tuệ.
Tám cận Nam Tử cùng mười sáu Trưởng Lão (1),
Hải hội Thánh chúng, quyến thuộc đông vi nhiễu,
Duy chỉ nhớ niệm, từ nhị biên hữu tịch (2)
Giải thoát, ban cho kiết tường của thắng lạc.
Đấng Chí Tôn hiện tổng nhiếp chốn quy y.

(1) Tám Đại Bồ Tát, mười sáu A-la-hán.
(2) Giải thoát từ hiện hữu của sinh tử và tịch tĩnh của Niết Bàn, gọi tắt là hữu tịch.

Khi quán tưởng thân của Đức Phật như thế thì lập tức khởi tâm nghĩ tưởng rằng [Ngài] thật sự có an trụ nơi đó. Bởi vì đối với thân trí tuệ của Chư Phật, bất kỳ phương hướng và thời gian nào cũng không có khoảng cách xa gần. Quán tưởng bất kỳ nơi nào thì chắc chắn Ngài sẽ an trụ chính nơi đó. Từ trong Kinh đã thuyết:
“Dù ai tác ý nơi Đức Phật,
Thì Phật an trụ ở trước đó,
Thường hằng ban cho lực gia trì,
Giải thoát hoàn toàn các tội chướng”
Vì thế quán tưởng Đấng Thắng Phật thì tư lương đã tích tập cũng sẽ không bị hoang phí, thiện căn không bị hư hoại. Trong Kinh Hoa Nghiêm:
“Nghe, thấy, thực hành cúng dường chư Thắng Phật,
Vô lượng phước đức chất chứa sẽ tăng trưởng,
Sẽ đoạn hết thảy phiền não, khổ luân hồi,
Trong khoảng giữa này duyên hợp sẽ bất tận”
Ở trước Phật phát nguyện như thế nào thì cũng sẽ thành tựu giống y như vậy. Từ trong Kinh Tuyên Thuyết Văn Thù Tịnh Thổ Công Đức:
“Hết thảy chư Pháp như duyên sinh,
Thường trú trên đỉnh của hy vọng,
Người nào vun trồng sự phát nguyện,
Sẽ đắc được quả giống như thế”
Hãy sinh khởi sự xác quyết kiên cố đối với các chân lý đã tuyên thuyết.

Đại bi nhiếp thụ ác thế, cấu trược thời,
Sau đó phát thệ năm trăm lời đại nguyện,
Tán như bạch liên, nghe danh bất thoái chuyển,
Cung kính đảnh lễ Bổn Sư Đại Từ Bi.
Thiện căn ba cửa, thụ dụng con và người,
Dâng cúng quán như mây cúng dường Phổ Hiền.
Tội chướng không sót tích tập từ vô thuỷ,
Tận lòng hối hận mãnh liệt phân biệt sám.
Thiện hạnh của chư Thánh giả cùng phàm phu,
Ba thời tích tập công đức con tuỳ hỉ.
Chánh lý thậm thâm, quảng đại Diệu Pháp Luân,
Thỉnh chuyển liên tục không ngừng khắp mười phương.
Nơi Ngài có thân trí tuệ như hư không,
Mặc dù an trú tam thời bất chuyển di,
Nhưng tuỳ tâm trạng chỉ bày lý sinh diệt,
Sắc Thân Biến Hoá thường hằng thị hiển hiện.
Con đã tích tập thiện căn trong tam thế,
Để lợi hết thảy chúng sinh khắp hư không,
Thường hằng tạo sự hoan hỷ nơi Pháp Vương,
Nguyện đắc quả vị Pháp Chủ Chiến Thắng Phật.
Chúng con, chúng sinh thời trược không hổ chủ,
Tăng thượng đại bi nhiếp phục bằng ân đức,
Thời này, cõi này hiện diện của Tam Bảo,
Bao nhiêu đều là sự nghiệp của chính Ngài.
Vì thế vô đẳng tối tôn chốn quy y,
Thành kính tín ngưỡng hết lòng con cầu khẩn,
Đừng quên thuở xưa đã phát đại thệ nguyện,
Cho đến giác ngộ nhiếp phục bằng đại bi.

Với tín tâm kính ngưỡng (tâm thắng giải tín) mãnh liệt, nghĩ tưởng rằng Đức Bổn Sư thật sự có an trụ, chuyên chú quán tưởng nơi thân tướng [Đức Phật] mà tận lực tụng niệm:

Cung kính đảnh lễ, cúng dường, quy y Thượng Sư, Tôn Sư Hoại Hữu Xuất, Như Lai, Phá Oán, Chánh Đẳng Viên Mãn Giác Ngộ, Thánh Đức Chiến Thắng Sha-kya Năng Nhân.
[Đấng Tôn Sư Hoại diệt bốn ma, sở Hữu sáu phẩm hạnh, Xuất ly khỏi ranh giới sinh tử Niết Bàn, Đấng Như thế mà đến, Phán oán phiền não, giác ngộ chân chánh đủ đầy, Bậc thánh đức chiến thắng dòng tộc Sha-kya Mâu ni]

Đà-ra-ni (tổng trì) được tuyên thuyết từ trong Kinh Tiểu Bát Nhã, là cách khuyến thỉnh dòng tâm thức của [Đức Phật].

 “Te-ya-tha, Om Mu-ni Mu-ni Ma-ha Mu-na-ye Soa-ha”

Nhiều lần, và từ “Om” trở đi hãy tận lực trì tụng. Trong thời điểm này tuỳ niệm tưởng đến phẩm hạnh của Đức Bổn Sư, và với tâm tín ngưỡng chuyên chú quán tưởng vào thân tướng [Đức Phật] hiển hiện rõ ràng. Dựa vào việc tụng niệm danh hiệu và trì tụng đà-ra-ni nên:

Từ thân Đức Bổn Sư phóng đại quang minh chứa đủ loại hào quang trí tuệ, xoá tan tất cả tội chướng của con và hết thảy chúng sinh.
Và sinh khởi như lý những đức hạnh từ con đường Đại Thừa để có được dũng khí nơi địa vị Bất Thoái Chuyển.

Hãy tận lực tinh tấn tụng niệm như thế.
Tuỳ thời gian căn cứ tình huống mà cúng dường như mạn-đà-la (xin xem trang kế), tụng đọc các loại tán thán Đức Năng Nhân (xin xem trang kế) hay bất kỳ loại Kinh nào theo ý muốn như Kinh Đại Bi Bạch Liên Hoa (hay Kinh Bi Hoa), Kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm (hay Kinh Thần Thông Du Hí), Kinh Bổn Sanh các loại (tức Truyện tiền thân Đức Phật), Một trăm linh tám danh hiệu Như Lai v.v… hãy tận lực tụng đọc như thế.
Hãy niêm phong hết thảy gốc rễ của thiện hạnh bằng sự hồi hướng cho Vô Thượng Bồ Đề và phát nguyện (xin xem trang kế).
Nói chung, khi đi, đứng, nằm, ngồi hết thảy mọi thời không quên nhớ tưởng đến Đức Bổn Sư, và ban đêm cũng quán tưởng thân hào quang của Đức Bổn Sư thật sự an trụ phát quang soi sáng hết thảy các phương dường như cực kỳ sáng sủa giống như ban ngày, ở trong cảnh giới (tưởng) đó rồi đi vào giấc ngủ. Bình thường cũng nhớ tưởng, hoàn cảnh chính Đức Bổn Sư ngày xưa đã bắt đầu phát tâm như thế nào, nổ lực noi theo các điển tích của Tam Thế Chư Phật và Chư Đại Bồ Tát, trong trạng thái không buông thả thệ nguyện của tâm bồ đề trân quý mà thực hành Bồ Tát Hạnh nói chung và đặc biệt tinh tấn tận lực tu hành du già chỉ quán (thiền chỉ và thiền quán), như vậy đối với việc có được thân người hạ mãn này sẽ tràn đầy ý nghĩa. Trong các Kinh có thuyết duy chỉ cần nghe danh hiệu chính Đức Bổn Sư của chúng ta thì sẽ từ từ bất thoái chuyển nơi con đường Đại Giác Ngộ. Trong Kinh Tiểu Bát Nhã Ba La Mật Đa: “Hết thảy Chư Phật khởi sinh từ đà-ra-ni được chỉ bày trên đây. Chính Quân Vương Sha-kya đã thành Phật nhờ vào oai thần có được của đà-ra-ni này và Đức Quán Thế Âm đắc được hàng Thù Thắng Bồ Tát. Duy chỉ nghe thấy đà-ra-ni này sẽ không khó nhọc mà đắc được quảng đại phước đức và tịnh hoá hết thảy nghiệp chướng. Nếu tu Mật Chú sẽ đạt được thành tựu không có ma chướng”, đã tuyên thuyết như thế. Từ trong Kinh điển khác cũng có thuyết: “Trì tụng một lần đà-ra-ni này sẽ có được vô lượng công đức lợi ích như được tịnh hoá hết thảy tội lỗi đã tạo trong tám trăm tỷ kiếp (câu chi bát vạn 10.000.000x80.000). Và đây chính là tâm yếu thù thắng của Đức Sha-kya Năng Nhân Như Lai”. Cách thức nổ lực làm sao để phát khởi tín tâm và tu hành du già chỉ quán có tuyên thuyết trong các luận điển khác.

Nghi quỹ này có được là do Won Orgyen Tendzin Norbu, một kho tàng châu báo tam học (giới, định, huệ), đã cúng dường kiết tường khăn ka-tag khẩn thiết khuyến thỉnh, và tôi đã ghi khắc trong tâm khảm. Gần đây nhất, Won Rinpoche lại uỷ thác Hoá thân Jigme Pema Dechen đến cùng với các cúng phẩm như đệ nhất bảo vật (vàng ròng), kiết tường khăn ka-tag, thỉnh cầu “Xin nhanh chóng hoàn thành tu pháp nghi quỹ này”. Ứng với lời khuyến thỉnh của nhị vị đại đức, và sự có được tín tâm bất thoái nơi Đức Bổn Sư thù thắng, Mipham Jamyang Gyatso, một người theo sau Đức Sha-kya, chỉ mang danh hiệu Thuyết Pháp Giả trong mạt thời này, đã hoàn thành dưới núi Dza Dorje Phenphug tại Phuntsog Norbu Ling (Viên Mãn Bảo Châu) tự viện, vào ngày mùng 8 tháng Đại Thần Biến năm Canh Tý Thiết Thử. Nguyện việc làm này sẽ liên tục không ngừng xuất hiện những điều kỳ diệu đối với việc hoàng Pháp lợi sinh. Nguyện năng lực gia trì vô đẳng của Đức Bổn Sư Năng Nhân thật sự thâm nhập nơi dòng tâm thức của hết thảy chúng sinh đã nhìn thấy, lắng nghe, nhớ tưởng, xúc chạm với nghi quỹ này.
“Nghe thấy thanh danh Tam Bảo trong cõi này,
Ân đức vô đẳng nghi quỹ Bổn Sư đây,
Kho tàng gia trì hỷ tiệc của chư chúng,
Ấn tống, kết nối nguyện họ đắc thành Phật.”
Manggalam – Nguyện kiết tường!


MẠN-ĐÀ-LA BA MƯƠI BẢY CÚNG PHẨM


Mạn-đà-la ba mươi bảy cúng phẩm

Om Ben-gia Bhu-mi Ah Hung!
Nền đại lực viên mãn thanh tịnh, mặt đất bằng vàng.
Om Ben-gia Re-khe Ah Hung!
Ngoại chu vi Thiết Sơn bao xung quanh trung tâm Hung.
Giữa Tu Di Sơn Vương,
Đông Thắng Thân Châu, Nam Thiệm Bộ Châu,
Tây Ngưu Hoá Châu, Bắc Câu Lô Châu.
Thân, Thắng Thân Châu; Miêu Ngưu Thắng, Miêu Ngưu Châu;
Siểm Châu, Thắng Đạo Hành Châu;
Ác Âm Châu cùng với Ác Âm Đối Châu.
Núi Lớn đại trân bảo, Cổ Thụ như ý,
Bò mãn nguyện, Mùa thu hoạch không cày,
Luân Xa đại trân bảo, Ngọc Châu đại trân bảo,
Vương Hậu đại trân bảo, Tể Tướng đại trân bảo,
Voi Lớn đại trân bảo, Tuấn Mã đại trân bảo,
Tướng Quân đại trân bảo, Bình Báu đại bảo tàng.
Kiều diễm nữ, Tràng hoa nữ, Ca nữ, Vũ nữ,
Hoa tươi nữ, Đốt hương nữ, Minh đăng nữ, Xoa hương nữ,
Mặt trời, Mặt trăng, Đại trân bảo lọng,
Bảo tràng chiến thắng hết thảy các phương.
Tất cả tài sản viên mãn thịnh vượng của trời và người không món nào không có, như thế cung kính dâng lên hết thảy Thánh Nhân Thượng Sư uy đức bao gồm Căn Bản Sư và Truyền Thừa Sư, hết thảy Thiên chúng trong đàn tràng Bổn Tôn, tập hội Chư Phật và Chư Bồ Tát.
Đại bi xin nhận vì lợi chư chúng sinh,
Khi nhận cầu thỉnh ban gia trì.

Xoa khắp diệu hương, rắc hoa nơi đại địa,
Trang hoàng Tu Di, Tứ Châu cùng Nhật Nguyệt,
Quán như Cõi Phật con vui dâng cúng dường,
Nguyện chúng hữu tình thụ dụng thanh tịnh thổ.
I-dam Rat-na Man-da-la Kam Nir-ya-ta Ya-mi


TÁN THÁN MƯỜI HAI CÔNG HẠNH PHẬT (*)


Thánh hoạ trình bày mười hai công hạnh Phật

Phương xảo từ bi sinh vào tộc Sha-kya (1),
Hoại diệt ma quân, tha nhân không thể thắng,
Thân tướng uy nghi như núi vàng Tu Di,
Quân Vương Sha-kya nơi Ngài cung kính lễ.
Là bậc đầu tiên phát khởi tâm giác ngộ,
Thực hành viên mãn phước trí hai tư lương,
Công hạnh quảng đại thời này (2) và trở thành
Hỗ chủ chúng sinh nơi Ngài con tán thán.
Làm lợi Chư Thiên biết đúng thời điều phục,
Từ trời giáng thế như voi lớn quang lâm,
Quán thấy chủng tộc, nơi Thiên Nữ Huyễn Ảo (3),
Tiến nhập mẫu thai công hạnh cung kính lễ.
Tròn đủ mười tháng nam tử dòng Sha-kya,
Lúc đản sinh vườn cát tường Lum-bi-ni (4),
Phạm Thiên, Đế Thích cúi lễ nơi thắng tướng (5),
Định tộc giác ngộ công hạnh cung kính lễ.
Thiếu niên dũng mãnh sư tử trong nhân loại,
Hiển tài nghệ nơi A-gha Ma-ga-dha (6),
Đã khuất phục hết chúng sĩ phu kiêu mạn,
Vô hữu địch thủ công hạnh cung kính lễ.
Hành xử phù hợp các pháp của thế gian,
Vì đoạn tội khổ của nghiệp mà nạp lấy (7)
Hậu phi quyến thuộc, hành phương tiện thiện xảo
Thái Tử hộ quốc công hạnh cung kính lễ.
Thấy rõ chư hành luân hồi không yếu nghĩa,
Trốn khỏi gia trạch du hành qua hư không,
Ở trước Thanh Tịnh Bảo Tháp tự mình làm,
Xuất gia hoàn toàn công hạnh cung kính lễ.
Nghĩ tưởng thành tựu giác ngộ bằng tinh tấn,
Sáu năm bên bờ sông Ne-ra-nja-na (8),
Thực hành khổ hạnh tinh tấn đến tận cùng,
Đắc thắng thiền định công hạnh cung kính lễ.
Để trọn ý nghĩa nỗ lực từ vô thủy,
Dưới cội Bồ Đề ở nước Ma-ga-dha,
Kiết già bất động hiện chứng quả Phật Đà,
Viên thành Chánh Giác công hạnh cung kính lễ.
Lấy đại bi tâm nhanh chóng nhìn chúng sinh,
Thù thắng thánh địa như Va-ra-na-si (9),
Chuyển Diệu Pháp Luân tuỳ cơ giáo hoá chúng,
An trí Tam Thừa công hạnh cung kính lễ.
Vì để đánh bại đối thủ ác tranh biện,
Như bọn lục sư ngoại đạo, chúng Thiên Thụ (10),
Hàng phục chúng ma nơi vùng Diệt Lụy Nữ (11),
Năng Nhân thắng các chiến đấu cung kính lễ.
Bởi vô tỷ dụ phẩm hạnh trong Tam Giới,
Hữu Sở Văn quốc (12) thị hiện đại thần thông,
Hết thảy thiên, nhân, chúng sinh đồng cúng dường,
Hưng thịnh Giáo Pháp công hạnh cung kính lễ.
Vì để khích lệ nhanh chóng chúng giải đãi,
Nơi Thượng Mao Thành (13) trên đại địa thanh tịnh,
Thân như kim cang bất tử đã viên tịch,
Khế nhập Niết Bàn công hạnh cung kính lễ.
Vì Chân Thật Tánh không hề bị hoại diệt,
Vì muốn chúng sinh tương lai đạt phước đức,
Chính thế hóa hiện rất nhiều xá lợi tử,
Tám phần linh cốt công hạnh cung kính lễ.

Chỉ một đoạn kệ (4 câu) đầu tiên của bài trên đây là do Tôn giả Drikungpa trước tác, từ đó trở về sau do Giáo Thọ Sư Long Thọ Bồ Tát sáng tác.

            Chú thích:
(*) Một thuật ngữ khác là “Phật hành thập nhị hoằng hóa”, ngụ chỉ hóa thân Phật thị hiện cả một đời trãi qua mười hai sự kiện lớn như: 01. Đâu Suất giáng trần, 02. Nhập trụ mẫu thai, 03. Viên mãn đản sinh, 04. Thiếu niên tài nghệ, 05. Thụ dụng phi quyến, 06. Ly gia xuất gia, 07. Nan hành khổ hạnh, 08. Đến Kim Cang Tòa (Bồ Đề Đạo Tràng), 09. Điều phục ma quân, 10. Viên thành Chánh Giác, 11. Chuyển Diệu Pháp Luân, 12. Nhập Đại Niết Bàn.
(1) Thích Ca – họ của Đức Phật Shakya Muni (Phạn ngữ), Tạng dịch Shakya Thubpa tức Shakya Năng Nhân, phiên âm từ Hán Việt là Thích Ca Mâu Ni. (2) Ngụ chỉ Đức Phật lựa chọn thời Hiền Kiếp này, khi con người có tuổi thọ một trăm, là thời cơ thích đáng mà thực hành sự nghiệp quảng đại và trở thành hỗ chủ của chúng sinh. (3) Mayadevi - Tên của hoàng hậu Ma Da, thân mẫu của Đức Phật. (4) Vườn Lâm Tỳ Ni. (5) Ngụ chỉ Đức Phật có ba mươi hai tướng thù thắng. (6) Ở Ngang Tạp thuộc nước Ma Kiệt Đà. (7) Ngụ chỉ đoạn trừ những lời phỉ báng. (8) Sông Ni Liên Thiền. (9) Vườn Lộc Uyển – Ba La Nại. (10) Devadatta – Đề Bà Đạt Đa. (11) Phiên âm Tạng ngữ: Khorma Jig. (12) Sravasti – Nước Xá Vệ. (13) Kushinagara – Thành Câu Thi Na.


TÁN THÁN CÔNG HẠNH BỔN SƯ NĂNG NHÂN VƯƠNG


Tôn tượng Đức Phật trong Tháp Đại Giác tại Bồ Đề Đạo Tràng

Khi Ngài, Tôn Chủ Chúng Lưỡng Túc đản sinh,
Nơi đại địa này xuất chân đi bảy bước,
Tuyên thuyết: “Trong thế gian này ta tối thắng”,
Thiện xảo đời này nơi Ngài cung kính lễ.
Đầu tiên từ cõi Đâu Xuất Thiên giáng lâm,
Tiến nhập thai tạng thân mẫu nơi vương cung,
Vườn Lâm Tỳ Ni, Năng Nhân hiện đản sinh,
Thế Tôn Thiên của Chư Thiên cung kính lễ.
Trong Việt Lượng Cung tám bốn bảo mẫu dưỡng,
Niên thiếu vui đùa cung thành tộc Thích Ca,
Ca Tỳ La thành Thái tử nạp vương phi,
Tam Giới vô đẳng Phật thân cung kính lễ.
Nơi bốn cổng thành trình hiện lý ưu não,
Cắt tóc xuất gia trước Bảo Tháp Thanh Tịnh,
Sông Ni Liên Thiền bên bờ hành khổ hạnh,
Viễn ly hai chướng, tội cấu cung kính lễ.
Trong Vương Xá thành điều phục voi lớn điên,
Thành Tỳ Xá Ly khỉ con dâng ong mật,
Nước Ma Kiệt Đà, Năng Nhân hiện Chánh Giác.
Trí Giả trí tuệ chiếu sáng cung kính lễ.
Thành Ba La Nại xoay chuyển Diệu Pháp Luân,
Tại vườn Kỳ Đà thị hiện đại thần thông,
Câu Thi Na thành tác ý Nhập Niết Bàn,
Thế Tôn tâm như hư không cung kính lễ.
Như vậy, Tôn Chủ Giáo Pháp - Hoại Hữu Xuất,
Nơi lý công hạnh khái quát xưng tán thán,
Do thiện nghiệp nguyện hành xử của chúng sinh
Ngang bằng công hạnh của Ngài, Đấng Thiện Thệ.

Bài tán thán công hạnh Đức Bổn Sư của chúng ta đây do Giáo Thọ Sư Mã Minh trước tác.

            [Kỳ nguyện:]

Như Lai Thiện Thệ thân Ngài như thế nào,
Quyến thuộc, Thọ hạn cùng với Thanh tịnh thổ,
Hảo tướng thù thắng của Ngài như thế nào,
Nguyện chúng con đắc chân thật đúng như thế.
Do nơi oai lực xưng tán, cầu thỉnh Ngài,
Chúng con dù trú địa phương nào thì đó,
Tật bệnh, bần cùng, chiến tranh tất tịch trừ,
Kỳ nguyện Phật Pháp quảng bố, tăng kiết tường.
Tôn Sư Phật Đà quang lâm trong thế giới,
Giáo Pháp toả sáng đồng như ánh thái dương,
Đồ Chúng Trì Pháp lưu truyền cùng hưng thịnh,
Giáo Pháp trường cửu, trụ thế nguyện kiết tường.

            [Hồi hướng:]

Phát tâm theo Đấng Thiện Thệ, chư Trưởng Tử,
Lý của công hạnh, kỳ nguyện, bi, trí, dũng,
Trí tuệ vô thượng, thần thông như thế nào,
Nguyện hết chúng sinh chứng đắc đúng như thế.
[Bài hồi hướng này] do Ngài Mipham.

Tâm Bồ Đề thù thắng đại bảo,
Nơi chưa sinh thì hãy phát sinh.
Đã sinh rồi cũng không suy tàn,
Nguyện tăng cao lại càng cao hơn.


             Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn, trích trong quyển “Kinh tụng Đại kỳ nguyện Đoàn kết Sham-bha-la” được tổ chức hằng năm tại Golok, do Ngài Hungka Dorje chủ trì, và cũng được tìm thấy trong một số Kinh tụng nghi quỹ khác. Nghi quỹ này cũng thường được Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, cũng như Ngài Tulku Pema Wanggyal truyền dạy và khuyến khích thực hành.

            Người dịch, Ngữ Lực Giới Hiền, với mong muốn chuyển dịch theo thể kệ tụng để quý vị Phật tử gặp khó khăn trong việc tụng đọc phiên âm Tạng ngữ có thể thực hành tu tập hằng ngày. Để có được cơ hội nhận sự ban phước không thể nghĩ bàn của Chư Phật như trong tu Pháp nghi quỹ này có giảng dạy. Chính vì vậy người dịch không ngại đem tài thô học thiển, đã cố gắng hết mình bạo dạng chuyển dịch sang Việt ngữ sao cho thật sát nghĩa, tuy nhiên chắc chắn là không thể trọn vẹn hết ẩn ý bên trong, nếu có chổ sai sót xin thành tâm sám hối.

            Chỉ còn vài ngày nửa là đến đầu tháng 4 Âm lịch, mùa Phật đản Vesak Phật lịch 2555, Dương lịch 2011, người dịch đã kịp thời hoàn thành bản dịch này với mong muốn dâng phần công đức nhỏ nhoi này cúng dường lên Đức Phật, Đấng Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương, Cha lành của các hàng Bồ Tát, Quân vương của các bậc Thánh nhân. Nguyện hồi hướng công đức này đến sự trường thọ của Chư vị Thánh Tăng Thượng Sư, là các Bậc Trì Pháp lưu truyền Chánh Pháp. Nguyện các Ngài cùng Giáo Pháp trường tồn trụ thế, hoằng Pháp lợi sinh, từ bi cứu độ chúng sinh thoát khỏi nơi biển khổ muôn trùng sóng. Cùng nguyện hết thảy chúng sinh thoát ly luân hồi khổ, đắc được quả vị Bất Thoái Chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề. Nguyện nơi oai lực bất hư của Tam Bảo Phật – Pháp – Tăng xin cho lời nguyện này được chân thật thành tựu. Nguyện kiết tường.


Hạ tải bản văn Tạng Việt tại trang Mediafire:

Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2013

Hồi ký phần 1: “Tìm về trú xứ Ân Sư, tu viện vùng cao Hy Mã”





Hồi ký
“Tìm về trú xứ Ân Sư, tu viện vùng cao Hy Mã”


KỲ I:
            Là một người Phật tử, với tâm thành kính và quy ngưỡng đến Đức Từ Phụ Bổn Sư (Đức Phật), ai ai trong chúng ta đều có một mong muốn trong đời được một lần hành hương đến xứ Phật tại Ấn Độ, Nepal để chiêm bái, tu tập. Để tìm về các Thánh tích mà hơn hai ngàn năm trước Đức Phật và Chư Thánh Tăng đã từng trú ngụ, cùng với những nẽo đường đầy bụi đất lầy lội, mà khi xưa nơi đây đã từng hằng in dấu chân Đức Phật và Thánh Chúng khi cất bước khuất thực hoá duyên, thuyết Pháp hoá độ chúng sinh. Đó là những nơi chốn linh thiêng đã ghi lại dấu ấn lịch sử, những sự kiện chính yếu quan trọng trong cuộc đời của Đức Phật, thị hiện những công hạnh hoá độ tại cõi Ta Bà này. Tìm về những nơi chốn ấy để đặt tâm mình hồi tưởng theo những sử liệu, Kinh sách đã ghi, để nhận lấy một chút tín tâm, sự an lạc, và hoan hỷ với những công hạnh của các Ngài đã thị hiện tại những nơi Thánh địa linh thiêng ấy.

            Trong tháng 6 năm 2011, nhân Pháp hội của Đức Dalai Lama dành cho người Việt Nam tại tu viện Namgyal ở Dharamsala thuộc miền Bắc Ấn. Tôi có một vài thân hữu sang tham dự Pháp hội và sau đó kết hợp thực hiện một chuyến hành hương chiêm bái Thánh tích Phật Giáo. Chuyến hành hương được thực hiện trong khoảng thời gian mà thời tiết khí trời Ấn Độ với cái nắng nóng vô cùng gay gắt, nhưng đến được Phật tích ai trong chúng tôi cũng chí tâm chí thành đến Đức Phật, và xem sự gian lao khó nhọc đó như là một phương pháp để thanh tịnh nghiệp chướng và tích tập công đức, vì vậy tất cả chúng tôi đều hân hoan vui mừng và chuyến đi được rất nhiều lợi lạc.


            Mãn nguyện nhất là gặp được các Bậc Đạo Sư, đặc biệt là được tham dự Pháp hội của Đức Dalai Lama, được diện kiến Ngài, có người được Ngài nắm tay, ban phước và nhất là mỗi người nhận được một tượng Đức Phật nho nhỏ, nhưng rất đẹp theo kiểu tượng Đức Phật tại Bodh Gaya. Duyên lành này tương ứng với niềm hân hoan của chúng tôi khi bắt đầu chuyến hành hương tìm về xứ Phật, thực hành cúng dường cầu nguyện đến Đức Bổn Sư Shakya. Chính vì vậy trong chuyến hành hương, đến những nơi Thánh tích Đức Phật, mỗi người đặt bức tượng đó xuống Thánh địa và cùng nhau thành tâm cầu nguyện, tụng Kinh trì chú theo “Nghi quỹ Đức Phật”. Sau này có trở về Việt Nam, chỉ cần mỗi lần nhìn thấy tượng Phật nhỏ bé này cũng đủ sinh tâm hoan hỷ và vui mừng khi nhớ đến chuyến hành hương Phật tích mà bản thân mình đã từng trải qua.

Tu viện Dzongsar gần Dharamsala

Trường cao học Tây Tạng Sarah tại Dharamsala

            Chuyến hành hương trải dài từ New Delhi, vượt hơn 600 km để lên hồ thiêng Tso Pema nơi Đức Liên Hoa Sinh thị hiện thần thong, rồi trở về Dharamsala tham dự Pháp hội xong, lại trở về New Delhi và sau đó bắt đầu hành trình Phật tích từ Varanasi, chiêm bái qua rất nhiều Thánh tích Phật Giáo. Hành trình kéo dài hơn hai mươi ngày sau thì đến Lumbini, điểm cuối cùng của các Thánh địa liên quan đến Đức Phật, và khi đến vườn cát tường Lumbini thì cũng chính là đã đến đất nước Nepal. Cũng chính vì đất nước Nepal này là nơi lần đầu tiên trong đời tôi đặt chân đến khi rời khỏi nước Việt Nam, và cũng chính nơi đây là trú xứ của Bậc Đạo Sư tôn quý của tôi, và những lần đến đất nước này đều để lại trong lòng tôi với biết bao ấn tượng khó quên. Đặc biệt nhất là lần này với một sự kiện trong chuyến đi đã khắc sâu vào tâm thức mỗi người trong chúng tôi một dấu ấn lớn, để sinh tâm thành kính tín ngưỡng đối với một Bậc Đạo Sư và nhất là đối với chính bản thân tôi sẽ không bao giờ quên trong suốt cuộc đời này. Đó là một kỷ niệm khi cả đoàn đã đến Nepal, từ thủ đô Kathmandu bắt đầu chuyến hành trình trở về tổ đình Thubten Choling của Đấng Kyabje Trulshik Rinpoche trong vùng núi Solu Khumbu, thuộc phía nam của đỉnh Enverest, gần biên giới Tây Tạng. Chính vì vậy, mặc dù chúng tôi đã hành hương qua rất nhiều Thánh tích của Đức Phật với rất nhiều hình ảnh khó quên ở những nơi đó, nhưng hồi ký này sẽ chỉ tập trung kể lại những hình ảnh của vùng núi cao Hy Mã với những trải nghiệm khó quên đã ghi sâu vào tâm khảm chúng tôi.

            Khi đặt chân đến Kathmandu, tại Đại Bảo Tháp Boudhnath hùng vĩ, linh thiêng, đi kinh hành cầu nguyện, một ước nguyện mong mõi của tôi cũng như của tất cả mọi người trong đoàn là được diện kiến Đấng Kyabje Trulshik Rinpoche trong cuộc đời này, nhưng thời gian này Ngài đã trở về núi Solukhumbu, nhập thất tại tu viện Thubten Choling của Ngài. Và hiện nay do Ngài nhập thất nên việc diện kiến Ngài vô cùng khó khăn, và đường lên núi thì xa xôi, nếu đi đường bộ thì cũng mất ba hay bốn ngày, mà hiện giờ lại đang là mùa mưa bão nên đường núi sạt lở đi rất nguy hiểm, còn đi máy bay thì thời tiết xấu cũng khó cất cánh và hạ cánh. Biết được tin này ai cũng phân vân, sau một ngày suy tính và cuối cùng chúng tôi quyết tâm tìm lên đến tu viện Ngài, nếu không nhân cơ hội này lên núi thăm Ngài và viếng tu viện thì sau này khó mà còn cơ hội khác. Còn bản thân tôi thì suốt đêm đó suy nghĩ tính toán và cũng ao ước muốn lên núi vì đây là dịp được trở về Tổ đình của mình. Trước đó vài ngày, vào cái đêm ngủ ở Pokhara, trước khi đến Kathmandu một đêm, tôi có một giấc mơ gặp lại Thầy mình và vị thầy thị giả của Ngài bảo rằng những người đi chung đoàn này hữu duyên phước đức vô cùng nên trong đời này được diện kiến Ngài, chính vì vậy càng làm tôi vững tâm hơn và quyết chí lên núi (giấc mơ này tôi liền kể cho vài người trong đoàn nghe ngay sáng hôm đó ở Pokhara).

Đại Bảo Tháp Boudha

            Cả một buổi tính toán kinh phí và ra đoàn quyết định là đi máy bay, vì trong đoàn đa phần là phụ nữ và lại có hai “Ama” đã lớn tuổi một 55 và một 60 nên không đảm bảo sức khoẻ đi đường bộ. Mua vé máy bay xong thì chuẩn bị hành lý, trang bị các túi ngủ và vật dụng gọn nhẹ để mang theo, vì lên núi cao, đường xa, khí hậu khắc nghiệt và cái lạnh thấu xương. Sau khi chuẩn bị hành lý, mọi người ra Đại Bảo Tháp Boudhnath đi kinh hành cầu nguyện, cầu mong cho chuyến đi lên núi được bình an và được diện kiến tôn nhan Bậc Thánh Tăng uy đức ngay trong đời này.

            Qua ngày hôm sau mọi người ai ai cũng náo nức, hớn hở ra sân bay, nhưng ngồi tại sân bay cứ nhìn đồng hồ thời gian trôi qua, cứ vài mươi phút lại xem đồng hồ mà vẫn không thấy có thông báo cho chuyến bay cất cánh, sau thời gian mõi mệt chờ đợi hơn 4 giờ thì hãng máy bay báo rằng thời tiết tại Solukhumbu không tốt, mây mù và mưa nhiều nên không thể hạ cánh, chính vì vậy nên huỷ chuyến bay hôm nay. Thế là mọi người phải mệt mỏi lất thất trở về quán trọ ở gần Tháp Buodhnath.

Chờ đợi chuyến bay tại Kathmandu

            Sáng ngày hôm sau thì chuyến bay khởi hành sớm hơn dự định vì chúng tôi nhận được điện thoại của hãng hàng không bảo phải ra sân bay gấp, tranh thủ thời tiết tốt thì bay liền. Chiếc máy bay chỉ có 18 chổ, chính vì vậy hễ đủ người thì sẽ lập tức cất cánh, không theo thứ tự danh sách, hễ ai có vé và có mặt tại sân bay thì lên máy bay, và ưu tiên người nước ngoài, vì những ngày qua do thời tiết xấu, máy bay không bay được nên hành khách dồn lại rất nhiều, ai ra trước thì bay trước vậy. Chính vì nghe thời tiết xấu nên vài người trong đoàn cũng rất lo lắng cho an toàn của chuyến bay, ngồi trên máy bay mặc dù thấp thỏm lo sợ nên liên tục trì tụng thần chú và cầu nguyện, nhưng đôi mắt thì không sao cưỡng lại được những hình ảnh hoành tráng, trùng trùng điệp điệp của núi non, của những con sông, con suối uốn lượng ngoằn ngoèo trải dài dưới thung lũng của dãy núi rừng Nepal khi nhìn từ trên cao xuống. Cuối cùng máy bay cũng hạ cánh an toàn xuống sân bay Phaplu với đường băng gồ ghề thô sơ, sân bay địa phương của miền núi nhỏ bé khiêm nhường.

Máy bay hạ cánh
Sân bay địa phương Phaplu

Chuẩn bị xuất phát

Hăng hái lên đường

            Khi đáp máy bay đến sân bay Phaplu thuộc vùng núi Solukhumbu thì lúc đó đã là 11 giờ trưa, nghỉ ngơi uống trà xong thì thuê người phụ khuân vác hành lý lên núi. Người địa phương nói rằng từ sân bay Phaplu này lên đến tu viện Thubten Choling chỉ có 6 giờ đồng hồ. Thế là bắt đầu cuộc hành trình lên núi, mọi người trong đoàn ai cũng hăng hái tung tăng, vai mang tay xách hành lý, hướng về phía núi cầu nguyện đến Bậc Đạo Sư mà tiến bước. Sau khi băng qua dãy nhà phố núi đơn sơ mộc mạc với con đường lầy lội, sình lầy trơn trượt sau những ngày mưa phùn kéo dài, đi được một lúc thì bắt đầu tiến vào con đường đá nhỏ chuẩn bị leo lên dốc núi, ngay lúc đó mây mù kéo đến và bắt đầu một trận mưa rừng lúc thì tầm tả, lúc thì lất phất. Đoàn đành ghé ngang một quán xá nhỏ bên đường mua vài tấm nhựa ni-lông để làm áo mưa khoác tạm lên người cho qua cơn mưa.


            Suốt dọc đường mưa rừng lất phất, gian lao không vì núi cao mà vất vả vì mưa ướt tầm tả, và hơn hết điều kinh hãi làm mọi người chùng bước, mõi mệt, lo âu đó chính là gặp phải những sinh vật hút máu của núi rừng Hy Mã Lạp Sơn. Lúc này đang là mùa mưa ẩm ướt nên những con vắt hút máu này sinh sôi nảy nở rất nhiều, dọc đường đi không ai trong đoàn mà không bị chúng đeo bám lấy hút máu, chúng nằm ở khắp nơi trên các lá cây khi mọi người đi ngang thì lập tức bám lấy chân tay, có con bò lên cả cổ và đầu tóc. Thoạt đầu đi vào núi chưa hay biết gì cứ men theo đường núi mà tiến bước, đến khi nhìn thấy tay chân đầy máu, kinh hãi hoảng hốt với vài con vật màu nâu đen đeo bám trên tay, khi nhìn thấy thì lúc đó chúng đã no bụng rồi. Có người khi bị hút máu không hề hay biết gì đến khi thấy áo quần ươn ướt dính máu xem lại thì đã muộn, nó hút đầy máu xong thì tự động rớt ra, còn chưa no thì bám chặc lấy da thịt, mình chúng trơn nhớt gở ra vô cùng khó. Cứ chốc chốc dọc đường đi lại nghe tiếng la thất thanh hốt hoảng của người đi trong đoàn khi bị vắt đeo bám lấy hút máu.
Sinh vật hút máu trên núi rừng Hy Mã

            Mặc dù vậy, thỉnh thoảng vẫn phải cố dừng chân trước những ngôi nhà ven núi của người Sherpa để nghỉ ngơi, một bà lão mái tóc bạc phơ, gương mặt da nhăn khắc khổ của người miền núi, nhưng đặc biệt trên đó lại đậm nét hiền từ, phúc hậu, an nhiên, bà vui vẽ mang ra một bát mận đào chín đỏ để mời mọi người giải khát, trò chuyện.


Dừng chân bên ngôi nhà của cụ bà

            Trong suốt dọc đường đi, vài đoạn dừng chân lại là nhìn thấy những vườn đào, vườn mận sai trái trĩu quả, những quả đào to bằng quả cam chín mọng ửng đỏ mọc thành chùm trên những cành cây với lá xanh mươn mướt, bao lấy quấn quít xung quanh những cây đào là những cụm sương núi, mây trắng lất phất. Không chỉ quấn quanh những cành đào trĩu quả mà phía bên trên những vách núi, những ngọn sơn tùng, thông lá kim xanh rì, cao chót vót cũng thoát ẩn thoát hiện trong mây núi lửng lờ trôi. Bên dưới là dòng suối trong xanh nước cuồn cuộn chảy sau cơn mưa đầy, con suối tuôn chảy mạnh mẻ như muốn xô đẩy những hòn đá to chắn ngang dòng chảy, lại thêm hình ảnh bên trên những cây cầu treo bắc ngang qua suối, bay lất phất trong sương mờ mờ ảo ảo là những màu sắc rực rở của những lá cờ cầu nguyện và khăn katag trắng treo vắt trên thành cầu, một khung cảnh hiện ra, mặc dù trong buổi chiều tà hiu quạnh, nhưng không hề mang vẻ buồn ảm đạm của vùng sơn cước mà lại toát lên vẻ thoát tục của chốn bồng lai tiên cảnh.



Khu vườn đào quanh núi



Sơn tùng cao chót vót bên trên, phía dưới là dòng suối với chiếc cầu gỗ bắc ngang




Mây lững lờ trên ngọn sơn tùng cùng dòng suối cuồn cuộn sau cơn mưa
Cầu treo bắc ngang qua suối

            Xem lại đồng hồ thì lúc này đoàn đã đi được hơn 4 tiếng, bởi trước khi đi nghe người địa phương đi núi nói rằng đường đi chỉ mất 6 tiếng, bên cạnh đó đoàn đã đi đến đoạn đường bắt đầu xuất hiện những ngôi bảo tháp cổ kính bạc màu với những cặp mắt Phật nghiêm trang, bảo tháp đứng hiên ngang trên những ngọn đồi ven đường gánh chịu sương gió, lất phất bên cạnh là những dây cờ cầu nguyện đang bay trong mây, và những dãy tường đá rêu phong với những phiến đá chạm khắc đầy Kinh điển và Thần chú vừa là Tạng văn và cũng có Phạn văn, nhìn thấy cảnh vật ấy nên mọi người cứ tưởng rằng đã gần đến ngôi tổ đình đại tự, cả đoàn đứng lại ngắm nhìn khung cảnh hùng vĩ của núi rừng Hy Mã Lạp Sơn, nhìn lên trên là những ngọn núi ẩn mình trong mây, những vách đá cheo leo sừng sững được tô điểm với những thác nước nhỏ nhoi, xa xa trên những triền núi mọc lên những ngôi nhà gỗ đơn sơ mộc mạc, cạnh bên là những chuồng bò gia xúc chất đầy cỏ khô, nhìn xuống bên dưới thâm thẩm là những cánh đồng lúc mì, lúa mạch xanh xanh vàng vàng, bên cạnh đó cũng là những vực sâu hun hút lững lờ với những áng mây trôi,… tất cả đã lôi cuốn khiến đoàn lữ khách phải ngây ngất đắm chìm trong cảnh núi.


Các ngôi tháp cổ dần xuất hiện, với những dây cờ lất phất trong mây

Dãy tường đá ngang đường khắc đầy thần chú và Kinh

Dừng chân bên ngôi tháp cổ hiên ngang trong gió lộng, bên cạnh là anh khuân vác dẫn đường

Đồng lúa mì bên triền núi
Lác đác vài ngôi nhà ven triền núi với các chuồng gia súc.

            Và đoàn lại tiếp tục men theo con đường núi nhỏ hẹp mà thẳng tiến, nhưng cứ đi mãi, bầu trời thì đã gần như sụp tối mà đích đến vẫn chưa thấy đâu, bèn hỏi lại người khuân vác thì anh ta mới nói cho biết là phải đi thêm 3 tiếng nửa, hôm nay khó mà đến kịp, phải dừng chân lại nghĩ qua đêm sáng hôm sau hãy đi tiếp. Bởi vì người địa phương là dân sơn cước, đi lại thường xuyên trên tuyến đường này, với họ thì hành trình này chỉ mất 6 tiếng là chuyện thường, nhưng mọi người trong đoàn toàn là dân ở thị thành, lại đa phần là phụ nữ, có hai “Bà Ama” đã hơi lớn tuổi nên vừa đi vừa nghỉ, nhưng cho dù với những thanh niên khoẻ trong đoàn cũng không thể nào đi được chỉ với 6 giờ trên một chặn đường núi cao như vậy. Vậy là cứ cố gắng dốc sức mà tiếp tục đi cho đến nơi có quán trọ để nghỉ qua đêm.


            Khi trời gần sụp tối thì mọi người lại nhìn thấy thêm một ngôi tháp cổ khác, to hơn ngôi tháp trước, dưới chân cũng là những dãy tường đá chất đầy những phiến đá khắc Kinh. Bước thêm vài bước thì đã thấy ngay một chiếc cổng xây bằng đá, trét vôi, cột gỗ với nét cổ kính trong rất xa xưa, dọc theo bên trong cổng là hai dãy Kinh luân hai bên, hình ảnh như những cổng chùa mà mọi người đã từng được thấy trong các phim ảnh về xứ tuyết Tây Tạng, thật sự đây đúng là cổng chùa theo phong cách Tây Tạng mà ở bên ngoài xứ Tạng do người Sherpa dựng nên. Cuối cùng anh khuân vác và vị Lama đi cùng đoàn báo cho biết rằng đã đến được quán trọ, nơi đoàn sẽ dừng chân lại ăn tối và nghỉ qua đêm.

Cổng của một tu viện cổ, phía sau là ngôi nhà trọ nghỉ qua đêm

Bảo tháp cổ kính và hành lang Kinh luân đối diện cổng chùa

            Vào được quán trọ, mọi người tranh thủ vào phòng và nhanh chóng cởi hết y phục trên người để kiểm tra xem có con vắt nào còn bám trong người mình hay không, nỗi ám ảnh và sợ hãi đối với con vắt hút máu cứ đeo bám mọi người trong suốt chặn đường, lo sợ chúng nó chui vào lỗ tay, lỗ mũi, vào rốn mà sinh sản trong đó… Có anh Tashi người Tây Tạng đi chung đoàn bắt ra trong người hai con vắt đã hút máu no căng. Kiểm tra cơ thể xong thì vệ sinh, rửa mặt lau mình với những gáo nước suối lạnh băng băng, nhưng phải cố dùng, sau đó mới thông thả xuống gian nhà ăn để gọi thức ăn, trò chuyện. Cũng trong lúc này, mọi người đang chờ thức ăn, ngồi dưới ánh đèn neon lờ mờ đủ sáng, phát ra từ dòng điện được quay bằng sức nước của con suối, tất cả chúng tôi quay quần bên nhau vừa nhắc lại những khó khăn của chặn đường đi lúc sáng vừa xoa bóp đôi chân, khung cảnh giống như một gia đình trò chuyện vui vẻ, còn thầy Lama đi cùng đoàn thì chui vào trong bếp ngồi cạnh bếp lò sưởi ấm và nói chuyện cùng ông chủ quán trọ, lát sau các vị ấy cũng tập trung ra phòng ăn này. Bấy giờ tôi mới có dịp trò chuyện và hỏi thăm ông chủ quán trọ người Sherpa biết một chút ít tiếng Tạng, cùng vị Lama đi cùng đoàn, từ đó cho tôi biết được thêm về vùng đất này.

Vui đùa dùng bửa trong quán trọ


Góc bếp đơn sơ nhưng ấp áp trong cái lạnh buốc của gió núi

Bửa sáng chỉ cốc trà sửa nóng với bánh mì chiên Tây Tạng, bột tsampa

Vài ngôi nhà kề bên quán trọ

            Thoạt tiên khi nhìn thấy cổng chùa nơi đây nên cứ tưởng rằng đã tới được tu viện tổ đình nhưng đây chỉ là cổng chùa của một ngôi chùa cổ được cộng đồng người Sherpa theo Phật Giáo Tây Tạng xây dựng cách đây hơn 300 năm, tu viện cổ này có tên là Chiwong Gonpa. Trong những năm 1959, với sự kiện lưu vong của Đức Dalai Lama đến Ấn Độ ở vùng đất Dharamsala, thì trong khi ấy Kyabje Trulshik Rinpoche cùng với mấy trăm tu sĩ và dân Tây Tạng cũng thoát khỏi Tây Tạng và đến trú xứ này. Và Ngài đã trụ lại ở tại tu viện Chiwong này trong khoảng sáu năm đầu, và tại tu viện này hiện tại còn lưu trữ Năm Bộ Phục Tàng (Terma) của Đức Liên Hoa Sinh truyền lại cho đến ngày nay, một năm chỉ có một lần trong dịp lễ hội mới mở Tàng Kinh ra cho đông đảo người dân Phật tử đến chiêm bái đảnh lễ. Khoảng thời gian sau đó, Ngài mới cùng với hơn sáu mươi tu sĩ tiến lên cao phía trên dãy núi nơi được gọi là “Sư Tử Động”, dưới hang động này còn lưu lại dấu ấn bàn tay của Ngài Sangye Lingpa, tại đây Kyabje Trulshik Rinpoche đã bắt đầu thành lập cộng đồng tu viện với tên gọi “Thubten Choling” (tu viện Giáo Lý Phật Đà, hay Phật Giáo Pháp Viện). Nơi vùng đất này rất gần đỉnh Enverset, thuộc phía nam của đỉnh Enverest, và cũng rất gần biên giới Tây Tạng – Nepal, nên rất nhiều người Tây Tạng tị nạn qua vùng đất này. Tôi nhớ lại hai năm về trước khi đang học tại trường Cao học Tây Tạng Sarah, trong một tiết giảng bài của thầy chủ nhiệm tên Passang, thầy có kể lại chuyến hành trình vượt núi tuyết chạy nạn của mình sang Nepal, có đoạn như sau: “Sau thời gian trốn chạy thì đã đến biên giới Nepal và ở trong một tu viện, món ăn ngon nhất trong đời mà tôi được ăn đó là bửa cơm đầu tiên tại tu viện của Kyabje Trulshik Rinpoche, chỉ có cơm và dal (một loại súp nấu bằng đậu xanh)”.

            Sau một ngày dài hành trình mỏi mệt, thế là mọi người ai về phòng nấy. Một gian phòng nhỏ hẹp được đóng bằng gỗ thông rừng với ánh đèn mờ ảo, sau khi cầu nguyện đến Bậc Đạo Sư xong thì thả mình vào giấc ngủ.

Hồi ký viết tại Dharamsala, ngày 15 tháng 8 năm 2011.
  
File kèm hình ảnh download tại link:
http://www.mediafire.com/view/?6lvgxy6xa8mmtgr